![]() |
Kê Sửu (đeo kính) đi đến tất cả các bản làng để tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Tà Ôi |
Tên khai sinh của cô là Nguyễn Thị Sửu nhưng người ta thường gọi cô là Kê Sửu và cô rất yêu quí tên gọi này. Cô tự hào khi được mang hai dòng máu Kinh - Tà Ôi.
Bố Kê Sửu là người Kinh, quê ở huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Năm 24 tuổi, ông từ giã người vợ trẻ, đứa con thơ và mẹ già đến với miền sơn cước theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Không ngờ mãi 25 năm sau ông mới có dịp về nhà để mong gặp mẹ và vợ con. Nhưng mẹ già đã qua đời, còn vợ ông tưởng chồng hi sinh nên đã đi bước nữa. Thế là ông đành trở lại A Lưới để tiếp tục công việc còn dang dở.
Mẹ Sửu tên là Kê Doaip, người làng Parnghi, xã A Ngo, huyện A Lưới. Cuộc đời bà là hiện thân của số phận người phụ nữ Tà Ôi xưa. Kê Sửu luôn nhớ câu chuyện mẹ kể rằng bà bị gả chồng khi mới lên 10 tuổi, phải làm những công việc nặng nhọc khi mũi chưa sạch hết: “Khi không làm nổi việc nhà, việc nương rẫy, mẹ đã bị kẻ là chồng mình đánh đập rồi kéo lết xuống cầu thang bẩn. Mẹ đã chạy trốn mấy lần về nhà nhưng người nhà chồng lại đến trói đưa về, lại đánh đập. Thế là mẹ phải tiếp tục sống trong tủi hổ rồi lớn lên và mang thai.
Khi sinh, mẹ tìm ra bìa rừng, tự cắt rốn cho đứa con đầu lòng. Đẻ được chừng ba ngày mẹ phải lên rừng làm rẫy. Một thời gian sau, chồng của mẹ lâm bệnh nặng và qua đời. Người nhà chồng lại định gả mẹ cho người khác. Nếu không có cách mạng thì mẹ không gặp được bố của các con hôm nay và đời mẹ sẽ mãi tăm tối, khổ cực. Mẹ mát cái bụng, ấm cái lòng khi được bố dang vòng tay yêu thương, nâng đỡ. Bố của các con đã không chê người đàn bà Tà Ôi góa chồng, không biết cái chữ, không biết nói ra điều mình muốn nói”.
Hai số phận dở dang cùng chung chí hướng cách mạng đã tìm đến với nhau. Sửu là kết quả của mối tình đó.
![]() |
Để thực hiện hoài bão đó, Sửu đã lao vào học tập. Cô biết rằng tri thức sẽ là chìa khóa để con người thực hiện ước mơ của mình. Yêu cha mẹ, yêu quê hương, yêu dân tộc Tà Ôi, Sửu đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để học hành đến nơi đến chốn. Tốt nghiệp đại học, trở thành giáo viên dạy văn phổ thông trung học, Sửu vẫn khát khao được tìm hiểu sâu hơn về văn hóa vùng đất A Lưới và dân tộc Tà Ôi.
Thế là tạm biệt chồng và đứa con trai chỉ mới hai tuổi, Sửu đã khăn gói xuống Huế học cao học. Để thực hiện luận văn “Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Tà Ôi”, cô đã phải học thêm tiếng Bru, Vân Kiều để đặt ngôn ngữ trong sự so sánh, đối chiếu. Sau khi bảo vệ xuất sắc luận văn thạc sĩ, được sự ủng hộ của thầy cô và với ước nguyện của bản thân, Kê Sửu tiếp tục ra Hà Nội làm nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Lúc đầu Kê Sửu chỉ chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ, nhưng dần dà cô nhận thấy ngôn ngữ và văn hóa của mỗi tộc người có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động, chi phối lẫn nhau nên cô quyết định nghiên cứu song hành cả ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Tà Ôi.
Mục đích cuối cùng của Sửu khi nghiên cứu ngôn ngữ Tà Ôi không chỉ để dạy tiếng cho học sinh người dân tộc và cán bộ người Kinh, mà còn để bổ sung, đề xuất những giải pháp phân tích ngữ âm học nhằm hoàn chỉnh hệ thống ngữ âm và chữ viết theo hệ Latin cho dân tộc Tà Ôi, đồng thời dùng kết quả nghiên cứu ngôn ngữ để ghi chép và lưu truyền các giá trị văn học, văn hóa dân gian đang có nguy cơ mai một, thất truyền.
Và thế là cô bước vào một thế giới kỳ diệu của văn hóa dân tộc Tà Ôi, một thế giới giàu sắc màu và thanh âm của các lễ hội đâm trâu, lễ hội mừng cơm mới..., có cả những câu hát sim ngọt ngào của các đôi trai gái lúc giao duyên. Để tìm hiểu mọi căn nguyên tồn tại của ngôn ngữ và nền văn hóa Tà Ôi, cô quyết tâm đi đến mọi vùng, mọi làng có người dân tộc Tà Ôi sinh sống. Đi đến đâu cô cũng nhận được những nụ cười nồng ấm, những ánh mắt thân thiện. Cô cũng không bao giờ quên những nhà nghiên cứu như Mai Khắc Ứng, Trần Hoàng... đã luôn giúp đỡ, khích lệ, động viên cô.
Rồi những đứa con tinh thần của Kê Sửu chào đời. Đầu tiên là cuốn Góp phần tìm hiểu văn hóa dân gian dân tộc Tà Ôi ở A Lưới, Thừa Thiên - Huế (đồng tác giả với Trần Hoàng) và mới đây, tập Truyện cổ Tà Ôi mà cô là đồng tác giả và dịch giả đã được Hội Xuất bản VN xét trao giải thưởng sách hay trong lần trao giải tháng 12-2006.
Truyện cổ Tà Ôi đến tay bạn đọc khi Kê Sửu đang chuẩn bị cho ra đời cuốn sử thi A Chất. Đây là lần đầu tiên người ta biết được dân tộc Tà Ôi ở Trường Sơn cũng có những tác phẩm sử thi đậm chất bi hùng như trường ca Đam San của người Êđê ở Tây nguyên.
Sống trên mảnh đất còn nặng hủ tục trọng nam khinh nữ, người phụ nữ chỉ có bổn phận làm mẹ, làm vợ, làm dâu, để làm được tất cả những điều kể trên, Sửu thật may mắn vì đã có người bạn đời tri kỷ, chia sẻ với hoài bão của vợ và đã cùng Sửu thuyết phục gia đình. Anh là điểm tựa vững chắc để giúp Sửu tiếp tục đi trên con đường đầy chông gai nhưng thú vị mà cô đã chọn.
Ngày nay, để tiện lợi trong sinh hoạt, nhiều người Tà Ôi đã mặc quần áo như người Kinh nhưng trang phục truyền thống vẫn luôn được coi trọng. Kê Sửu cũng thế. Cô yêu những bộ váy áo thổ cẩm duyên dáng do chính tay mẹ dệt riêng cho mình. Trên đó có một ngôi sao xanh, biểu tượng mà người Tà Ôi dành tặng những cô gái đẹp nết, đẹp người.
Đối đáp giao duyên trong lễ hội đi Sim Nam Em ơi, con suối khóc thanCon sông than vãn muôn ngàn lệ rơi Em ơi, rừng gọi rừng mờiDang vòng tay rộng ôm người vào panul (1) Nữ Anh ơi, dải sợi còn chùngChờ em thêu, dệt mình chung con đườngAnh ơi, sợi còn trong khungĐợi em điểm xuyến, kết từng meenh chachung (2) Nam Ơi em, sẵn vật buộc chânMấy dịp anh gửi, mấy lần anh traoChiếc vòng (3) vương cổ dạt dàoTình yêu gửi trọn em, sao ngại ngần? Nữ Ơi anh, em thật ngại ngầnChuối (4) xanh chưa chín để mình rửa chânMôn thơm (5) chưa trút lá dầnĐể ta rửa mặt, bội phần kết đôi Nam Lời hẹn ước chẳng phai phôiNgkap (6) sừng sững yêu người trăm năm Nữ Một đêm không đợi tối tămBa đêm không nhớ trăm năm mất chàng ----------------- Chú giải (1): váy đắp chung của đôi trai gái khi họ bén duyên nhau.(2): tên của ngôi sao bắc đẩu với quan niệm của người dân Tà Ôi là ngôi sao xanh.(3): Chiếc vòng cổ được làm bằng bạc, là lễ vật tình yêu do con trai tặng con gái.(4), (5): Đó là thứ được mẹ chồng hoặc bà mối bẻ đôi cho cô dâu chú rể trước khi động phòng.(6): ví hình ảnh người con trai chung thủy và quyết tâm chung thủy. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận