28/08/2025 10:02 GMT+7

Để giáo dục và đào tạo quyết định tương lai dân tộc

Bộ Chính trị vừa ban hành nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) với quan điểm mở đầu: "Nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc".

giáo dục và đào tạo - Ảnh 1.

Học sinh lớp 10 Trường THPT Marie Curie (TP.HCM) đến trường nghe phổ biến nội quy và chụp ảnh làm hồ sơ vào chiều 27-8 - Ảnh: T.T.D.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (thành viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội, phó Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hải Phòng) nói quan điểm này rất đáng chú ý, thể hiện nhận thức hoàn toàn mới, chưa từng có trong các nghị quyết trước đó.

Quan điểm thể hiện rõ sự nâng lên tầm mới, đưa nhận thức với GD-ĐT không chỉ là khẩu hiệu mà cần được hiện thực hóa bằng hành động cụ thể.

Xóa bỏ rào cản chi phí, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi trẻ em

giáo dục và đào tạo - Ảnh 2.

Đại biểu NGUYỄN THỊ VIỆT NGA

* Theo bà, thời gian tới cần làm gì, chuẩn bị nguồn lực thế nào để thể hiện rõ GD-ĐT sẽ quyết định tương lai dân tộc?

- Để thực hiện tốt quan điểm mới này, có ba nhóm nhiệm vụ trọng tâm cần được triển khai khẩn trương và hiệu quả.

Thứ nhất, với nguồn lực tài chính, cần ưu tiên ngân sách cho giáo dục, đồng thời huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội, kết hợp giữa nguồn lực của Nhà nước với các nguồn xã hội hóa hợp pháp khác.

Nghị quyết nêu rất rõ dành cho giáo dục 20% tổng thu ngân sách.

Tuy nhiên, con số 20% này không đơn thuần là việc cấp cho ngành giáo dục số kinh phí ấy qua mỗi năm mà cần có sự tính toán tỉ mỉ của các cơ quan chức năng (Bộ Tài chính) về ngân sách dành cho giáo dục tổng hợp từ nhiều bộ ngành khác nhau, các chương trình mục tiêu quốc gia khác nhau.

Với nguồn lực quốc gia còn eo hẹp, cần sự tính toán thực sự sát đúng và phù hợp để những đầu tư vừa phát huy hiệu quả tối đa lại vừa tránh lãng phí.

Thứ hai, về nguồn lực con người. Cần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và giảng viên, có chính sách thu hút nhân tài, chuyên gia trong và ngoài nước một cách thực sự nổi trội, đủ sức hấp dẫn.

Có như thế mới nâng cao được chất lượng giáo dục như kỳ vọng. Không thể có một nền giáo dục phát triển nếu thiếu đi đội ngũ các nhà giáo, các chuyên gia giáo dục giỏi.

Thứ ba là về quản trị hệ thống. Phải đổi mới quản lý, minh bạch, lấy người học làm trung tâm. Đây là yếu tố thường ít được nhắc tới nhưng là một trong những yếu tố then chốt để chúng ta phát triển, đổi mới giáo dục trong thời kỳ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ.

giáo dục và đào tạo - Ảnh 3.

Học sinh khối 6 Trường THCS Gò Vấp (TP.HCM) hồ hởi bước vào ngôi trường mới - Ảnh: THANH HIỆP

Một bộ sách giáo khoa miễn phí: nhân văn và công bằng

* Một nội dung nhận được nhiều quan tâm, đó là trong nhiệm vụ - giải pháp nghị quyết đề cập việc bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất trong toàn quốc, phấn đấu tới năm 2030 sách giáo khoa cung cấp miễn phí cho tất cả học sinh. Bà nhìn nhận thế nào về nội dung này?

- Chủ trương cung cấp sách giáo khoa miễn phí cho tất cả học sinh vào năm 2030 là rất nhân văn, bảo đảm tính đồng bộ và công bằng trong tiếp cận giáo dục, giúp xóa bỏ rào cản chi phí, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi trẻ em.

Để thực hiện, cần cơ chế sản xuất và in ấn tối ưu, ứng dụng công nghệ số để giảm giá thành; hệ thống phân phối công bằng; nguồn ngân sách hợp lý, kết hợp với xã hội hóa để bảo đảm bền vững tài chính.

Cũng để chủ trương về sách giáo khoa tại nghị quyết đi vào thực tiễn một cách hiệu quả, cần đặc biệt coi trọng một số nội dung.

Trong đó, quá trình biên soạn phải công khai minh bạch, có sự tham gia rộng rãi của các nhà khoa học, giáo viên và được phản biện xã hội đầy đủ. Điều này giúp bộ sách tránh được sai sót, bảo đảm tính khoa học và phù hợp thực tiễn.

Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế thẩm định đánh giá độc lập và khách quan, tránh tình trạng hình thức hoặc "đóng khung" cứng nhắc. Việc thẩm định phải hướng tới chất lượng, không chỉ dừng ở việc "hợp thức hóa thủ tục".

Thứ nữa, khâu triển khai phải đồng bộ từ tập huấn đội ngũ giáo viên, bảo đảm cơ sở vật chất đến việc hỗ trợ các địa phương còn khó khăn. Có như vậy bộ sách mới thực sự đi vào cuộc sống, không gây thêm áp lực cho phụ huynh, học sinh và giáo viên.

Về lộ trình, cần thực hiện từng bước chắc chắn, có thí điểm và tổng kết rồi mới nhân rộng.

Còn về tiêu chí đánh giá, ngoài chất lượng tri thức, cần chú trọng đến tính phù hợp với năng lực tiếp thu của học sinh, tính khả thi trong giảng dạy và đặc biệt là mức độ đồng thuận xã hội. Khi đạt được các tiêu chí đó, bộ sách giáo khoa thống nhất sẽ trở thành công cụ hữu hiệu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đúng như tinh thần nghị quyết 71 của Bộ Chính trị.

Giáo dục mầm non và phổ thông là "gốc rễ" của hệ thống giáo dục quốc dân

giáo dục và đào tạo - Ảnh 4.

* Trong quan điểm chỉ đạo có nêu giáo dục mầm non, phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học. Theo bà, ngành giáo dục cần thêm những giải pháp gì để thực hiện điều này?

- Giáo dục mầm non và phổ thông chính là "gốc rễ" của cả hệ thống giáo dục quốc dân.

Đây là giai đoạn không chỉ trang bị kiến thức mà quan trọng hơn là hình thành nhân cách, bồi dưỡng phẩm chất, rèn luyện kỹ năng sống, tạo nền tảng cho sự phát triển toàn diện của con người.

Để làm được điều này, ngành giáo dục cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục.

Theo đó, cần tiếp tục chuyển từ lối dạy học nặng về ghi nhớ sang dạy cách tư duy, cách giải quyết vấn đề.

Chương trình học phải gắn chặt với thực tiễn, giúp học sinh biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, đồng thời nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, ý thức công dân và tinh thần hội nhập quốc tế.

Đồng thời đầu tư mạnh mẽ cho đội ngũ giáo viên và giáo viên mầm non, phổ thông phải thực sự được coi là lực lượng nòng cốt.

Ngoài nâng cao trình độ chuyên môn, chúng ta cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng sư phạm, kỹ năng tâm lý - giáo dục để họ có đủ khả năng nuôi dưỡng, dìu dắt học sinh từ những năm đầu đời.

Bên cạnh đó, phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là đối với giáo viên ở vùng sâu vùng xa, để họ yên tâm gắn bó với nghề.

Một giải pháp khác là tăng cường phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội. Việc hình thành nhân cách, phẩm chất của học sinh không thể chỉ giao cho nhà trường, mà cần sự đồng hành chặt chẽ của phụ huynh và xã hội.

Nhà trường cần thường xuyên trao đổi với cha mẹ học sinh, lắng nghe và phối hợp trong việc giáo dục con trẻ. Đồng thời, cộng đồng xã hội, đoàn thể cũng cần tham gia tạo môi trường lành mạnh và an toàn, giúp các em phát triển hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và tâm hồn.

Nếu làm được những điều này, giáo dục mầm non và phổ thông sẽ trở thành bệ phóng vững chắc để hình thành thế hệ công dân Việt Nam vừa có tri thức vừa có đạo đức, nhân cách và trách nhiệm xã hội.

Một số mục tiêu cụ thể của nghị quyết

Đến 2030

- Mở rộng tiếp cận công bằng, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á.

- Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 - 5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở.

- Tỉ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%.

- Tỉ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng.

- Tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.

- Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín...

Đến 2035

- Hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và tương đương.

- Phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín...

Tầm nhìn 2045

- Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới.

- Mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ, kỹ năng và phát triển tối đa tiềm năng cá nhân.

- Phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín...

giáo dục và đào tạo - Ảnh 5.

Thí sinh phấn khởi sau khi thi tốt nghiệp THPT năm 2025 - Ảnh: NAM TRẦN

* Đại biểu TRẦN KHÁNH THU (Hưng Yên):

Tạo cơ chế mới khuyến khích học tập, hỗ trợ học sinh - sinh viên

Để giáo dục và đào tạo quyết định tương lai dân tộc - Ảnh 2.

Tôi đặc biệt ấn tượng với việc trong nghị quyết thể hiện việc thống nhất chủ trương xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia mới về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035; ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học.

Điều này thể hiện rõ nhất quan điểm chỉ đạo của Đảng về vai trò và trọng trách của GD-ĐT; coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực và nền tảng vô cùng quan trọng để phát triển, quyết định tương lai đất nước, dân tộc trong giai đoạn mới.

Thứ hai, việc thành lập quỹ học bổng quốc gia, đồng thời phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học khác từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác, là một cơ chế mới nhằm khuyến khích học tập, hỗ trợ học sinh - sinh viên, đặc biệt là con em vùng sâu vùng xa.

Bên cạnh đó, nghị quyết cũng đặt mục tiêu chiến lược dài hạn như xây dựng hệ thống giáo dục hiện đại, hội nhập sâu rộng với thế giới.

Việc nhấn mạnh đến giáo dục toàn diện - kết hợp giữa tri thức, kỹ năng, đạo đức và thể chất - thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới việc đào tạo con người Việt Nam phát triển hài hòa, sáng tạo và bản lĩnh.

Chính sách nâng cao đời sống, thu nhập cho nhà giáo, chú trọng giáo dục ở vùng khó khăn, phổ cập giáo dục tới từng lớp tuổi cũng cho thấy sự công bằng và nhân văn trong tiếp cận giáo dục.

Nghị quyết thúc đẩy tự chủ, đổi mới, chủ động sáng tạo trong từng trường học, từng giáo viên và khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới vào giảng dạy để nâng cao chất lượng.

Để nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, cần quyết tâm cao của toàn xã hội, sự vào cuộc đồng bộ của các ngành, các cấp, và sự thay đổi tư duy mạnh mẽ từ quản lý tới giáo viên và học sinh.

Việc tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát và đảm bảo nguồn lực đủ lớn cũng là thách thức không nhỏ.

Tuy nhiên, nếu thực hiện nghiêm túc nghị quyết 71 sẽ góp phần tạo nên đột phá cho giáo dục Việt Nam, đưa đất nước tiệm cận với những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như mong muốn của toàn dân và quyết sách của Đảng, Nhà nước.

* Đại biểu NGUYỄN THỊ MAI HOA (phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội):

Tin vui về thu nhập cho giáo viên

Để giáo dục và đào tạo quyết định tương lai dân tộc - Ảnh 2.

Tôi cho rằng điểm đột phá được coi là mạnh mẽ trong nghị quyết lần này chính trong quan điểm chỉ đạo, nhận thức, tư duy chung về giáo dục.

Trong đó, nhất quán coi "giáo dục là quốc sách hàng đầu" nhưng đã bổ sung định hướng xác định tầm quan trọng của giáo dục "quyết định tương lai của đất nước".

Đồng thời một điểm đột phá khác chính là trong xác định quyền tự chủ cho giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc mức độ tự chủ.

Cũng tại nghị quyết, Bộ Chính trị nhấn mạnh đến yêu cầu cần có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo, xây dựng chính sách phù hợp để huy động được người giỏi ngoài ngành tham gia giảng dạy, huấn luyện... là tin vui đối với nhà giáo và ngành giáo dục.

Thực tế khi xây dựng và thông qua Luật Nhà giáo, quy định về việc lương giáo viên được xếp cao nhất trong thang bảng lương hành chính sự nghiệp đã nhận được không ít ý kiến bày tỏ băn khoăn về tính khả thi.

Tuy nhiên, với các yêu cầu, giải pháp trong nghị quyết 71 của Bộ Chính trị thì nội dung này đã được tháo gỡ.

Vì thế cần nhanh chóng đưa Luật Nhà giáo vào thực tiễn, hiện thực hóa thông qua hệ thống thang bảng lương cụ thể để chính sách có hiệu lực ngay. Đồng thời rà soát, xây dựng đội ngũ nhà giáo và nhân viên trường học đạt chuẩn.

* TS Trần Thanh Hải (hiệu trưởng Trường cao đẳng Viễn Đông):

Trường nghề có cơ hội đột phá

Để giáo dục và đào tạo quyết định tương lai dân tộc - Ảnh 2.

Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị lần này là một bước chuyển rất mạnh mẽ về tư duy đối với giáo dục nghề nghiệp.

Lần đầu tiên các giải pháp được đặt ra rất rõ ràng: tái cấu trúc hệ thống trường nghề theo hướng tinh gọn, hiệu quả; phát triển những cơ sở đạt chuẩn quốc tế; và đặc biệt là nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp - địa phương.

Tôi cho rằng điều này đánh trúng "nút thắt" lớn nhất lâu nay là đào tạo chưa thật sự gắn với nhu cầu của thị trường lao động.

Điểm tôi thấy nổi bật là nghị quyết đã xác định rõ vai trò của giáo dục nghề nghiệp song hành cùng giáo dục đại học, chứ không phải "bậc dưới" hay "lựa chọn thứ yếu".

Việc đưa trung học nghề tương đương THPT, phát triển phân luồng ngay từ sau THCS sẽ giúp học sinh có thêm nhiều lựa chọn thực chất, phù hợp với năng lực, không phải tất cả đều phải vào đại học. Đây là một quan điểm tiến bộ, tiệm cận xu hướng của các nước phát triển.

Tôi cũng đặc biệt đồng tình với cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển đội ngũ nhà giáo dạy nghề và thu hút chuyên gia, người lao động tay nghề cao tham gia giảng dạy.

Nếu có cơ chế để kỹ sư, chuyên gia từ doanh nghiệp tham gia dạy nghề, chất lượng đào tạo chắc chắn sẽ thay đổi rõ rệt. Ngân sách đầu tư cho giáo dục cũng là cơ sở quan trọng để các trường nghề yên tâm phát triển theo hướng hiện đại.

Tôi tin rằng mục tiêu đến năm 2030, 2035 và tầm nhìn 2045 về việc xây dựng hệ thống giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc tế, hình thành lực lượng lao động kỹ năng cao là hoàn toàn khả thi nếu các giải pháp trong nghị quyết được triển khai đồng bộ.

Để giáo dục và đào tạo quyết định tương lai dân tộc - Ảnh 9.Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Tuổi Trẻ Online trân trọng giới thiệu đến bạn đọc toàn văn Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên

    Tuổi Trẻ Online Newsletters

    Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

    Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất