02/02/2006 16:42 GMT+7

Chiếc dép và Hương sầu đông...

NGUYỄN HỮU ĐỔNG
NGUYỄN HỮU ĐỔNG

TTO - Mỗi lần dự hội tế Bà Thu Bồn 13-2, tôi lại thấy thấp thoáng đôi dép, đúng hơn là đôi hài trong lễ rước vị. Lại nhớ chị Xuân Quý, lại thấy hoa Sầu Đông lung lay, thả những chùm hoa quanh lăng...

1. Chị vào chiến trường lúc đang ác liệt, mang theo nỗi nhớ Hà Nội quay quắt, lại nhớ con rưng rức mỗi chiều về. Thế mà, ở Trường Sơn được mấy tháng, ngồi đuổi khỉ mà viết ra truyện ngắn Hoa Rừng. Nhưng chị còn khát khao đi ra tuyến trước, về đồng bằng đang đối mặt hàng giờ với cam go, gian khổ. Và chị đến Duy Xuyên, một tuyến lửa của Quảng Đà.

Vùng đất Duy Xuyên lúc này, ngày có mấy trận địch càn đi xới lại, ngày có những trận đánh, đêm có mấy lượt vượt qua đường Một để xuống vùng sâu hơn, xa hơn, ngày cũng có người dân tiếp tục bị dồn vào khu tập trung An Hoà. Bấy giờ, tiếng ai ca trong đêm nghe rầu thúi ruột: Đói lòng ăn nửa trái sung - Còn hơn vào trại tập trung An Hoà.

Vậy mà chị đi đến vùng đất đó. Rồi gan lỳ, gai góc cùng các cán bộ, du kích địa phương đánh địch. Khi thì chị ở Xuyên Trường, lúc ở Xuyên Hoà, khi đi Xuyên Phú, Xuyên Tân... Chị đi, lăn lộn cùng cuộc chiến đấu gian khổ của quân và dân Duy Xuyên, tưởng càng ngày khô cứng đi. Nhưng không, chị vẫn viết, dự định xây dựng một truyện vừa về Xuyên Hoà để nói cả về Khu V, cả miền Nam.

Và, điều này mới thật kỳ diệu, phụ nữ bao giờ vẫn cái tính ấy, không thể thiếu chút duyên của người đàn bà. Ấy là câu chuyện vào tháng giêng năm 1969 ở Xuyên Hoà, nhằm đêm ngày 22 tháng 2 tây, chị cùng cán bộ du kích địa phương vừa nổ súng đánh địch xong thì chạy chuyển chỗ khác. Ai dè chạy đến xóm gần bọn Mỹ đóng quân độ mười phút đường, chị phải... giấu dép ở gần bọn địch. Ôi, đây mới thực là tâm trạng của đàn bà, phụ nữ, con gái: Tôi lo mất dép quá, tôi để dép bên một hố ca nông giữa đồng lúa. Xẩm tối, tôi liều lĩnh chạy ra kiếm dép. Rồi cũng chả sao...

Dũng cảm, có duyên, tài năng, trải nghiệm đang độ mùa xuân chín thế, mà chỉ sau mười mấy ngày đi tìm dép ấy, chị đã ngã xuống trên đất Xuyên Tân khi cùng các cán bộ và du kích địa phương bật hầm định bứt khỏi vòng càn quét của lính Nam Triều Tiên. Chị trở thành liệt sĩ- nhà văn- nhà báo Dương Thị Xuân Quý.

2. Đất Duy Xuyên cũng có một loài cây, một loài hoa, loài hương giống như chị Xuân Quý. Ở đâu đó trên miền Bắc gọi là hoa Xoan (hay Xuân?), còn ở miền Nam gọi là Thầu Đâu (hay Sầu đau?). Quê tôi, đất Quảng và vùng quê Duy Xuyên, cũng có người gọi là cây Sầu Đông. Gọi cách nào thì cũng có căn cớ.

Thường mùa đông cây trút lá, thấy mà sầu rầu. Nhưng đến mùa xuân thì tự trong lòng ứa nhựa, vỏ mưng lên rồi toác ra hé lộ những chồi nõn nà. Không vội chào mùa xuân trong dịp Tết, Sầu Đông sẽ trổ hoa nồng nàn khi mùa xuân sắp già, chín tới. Hoa từng chùm, trăng trắng và tím, rải lả tả trong gió xuân, trong đêm xuân nồng nàn.

Trên cái đất phù sa màu mỡ, những hạt Sầu Đông tán đi trong lũ, gặp đất là nảy mầm, bám vào lòng đất, một sức sống dẻo dai, bền bỉ. Và cứ mỗi xuân, qua các vùng biền thổ, qua các rẻo làng chung quanh lăng Bà Thu Bồn, đồn Kiểm Lâm, Mỹ Lược, chợ Chùa, lại bắt gặp Sầu Đông trổ hoa, trắng và tím cả những chiều.

3. Có cái gì liên quan, ràng buộc nhau thân phận chị Xuân Quý, chiếc dép của chị với cây và hương hoa Sầu Đông? Là bởi vì, đó là một sự ám ảnh. Mảnh đất Duy Xuyên có cả một vùng văn, nhiều con người văn, nhưng hình như phiêu bạt khắp cùng như thi sĩ ngông Bùi Giáng. Trái lại, trên mảnh đất này, ít nhất có hai nhà văn không phải quê đây đã nằm lại, đó là Nhà văn Chu Cẩm Phong và Dương Thị Xuân Quý.

Hơn cả cái sự họ ngã xuống, là còn đấy trang viết về những năm tháng, những mùa xuân gian khổ của Duy Xuyên. Có thể, khi bật nắp hầm tung lên, và sau đó hy sinh, chị Xuân Quý cũng đã để lại trong góc hầm một đôi dép. Qua mấy mùa phù sa, có hạt Sầu Đông trôi vào đây, nép vào đó mà sinh sôi, thành hình một loài hoa nở cho mùa xuân chín. Phải rồi, như nhà văn Nguyên Ngọc từng tự vấn, rằng bạn bè ông, những nhà báo, nhà văn hình như cố tình nằm dọc ven bờ con sông Thu, góp nên phù sa màu mỡ cho mùa Xuân hôm nay.

Và cái ngày mà chị Quý hy sinh, 8 tháng 3 năm 1969 - Kỷ Dậu; ngày theo dương lịch đó thường niên dễ trùng vào dịp lễ tế hội Bà Thu Bồn 13-2. Đôi lần dự hội tế ấy tôi lại thấy thấp thoáng đôi dép, đúng hơn là đôi hài trong lễ rước vị. Lại nhớ chị Xuân Quý, lại thấy hoa Sầu Đông lung lay, thả những chùm hoa quanh lăng...

NGUYỄN HỮU ĐỔNG
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên