![]() |
Thế là tôi đã lênh đênh trên biển đến nay hơn một tháng. Tôi nhớ những người thân vô cùng. Mẹ tôi người bé nhỏ, nhanh nhẹn, đôi mắt trong sáng, hiền từ nhưng khi bà giận dữ thì cũng phát khiếp. Từ khi còn nhỏ, đến bây giờ cũng vậy, mẹ tôi luôn nâng niu chăm sóc tôi. Tôi sợ nhất là khi thấy mẹ buồn thiu, đôi mi cụp xuống, những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má khi tôi phạm lỗi.
Bố tôi thông minh, rất yêu tôi nhưng thường biền biệt xa nhà. Vì thế một tháng đối với mẹ tôi là rất dài. Chắc chắn mẹ tôi mong ngóng từng ngày, chờ tôi về với bà. Tuy nhiên chuyến công tác của tàu Bình Minh chưa kết thúc và biển còn đang vẫy gọi tôi phía trước.
Tàu lần này đi vào Vịnh Thái Lan. Ngoài xa nhìn vào, tiếp giáp với màu nước biển xanh lơ chuyển sang vàng đậm của phù sa là màu xanh bát ngát của rừng đước tạo thành hình chữ V khổng lồ mà từ trước đến nay tôi chỉ mới thấy trên bản đồ trong các giờ học địa lý. Tôi nhớ đến bài thơ của Xuân Diệu về miền đất này với hai câu thơ mở đầu gợi lên hình ảnh chuyển động thật oai hùng:
Tổ quốc tôi như một con tàuMũi thuyền ta đó, mũi Cà Mau….
Ông tôi chỉ cho tôi thấy dòng phù sa sông Cửu Long khi trôi xuôi ra đến biển thì gặp dòng hải lưu ngầm từ phía Bắc chảy xuống, vận chuyển khối lượng đất bùn khổng lồ đắp lên bán đảo này, làm cho mũi Cà Mau mỗi năm lấn dài ra biển hơn 30 mét. Đất nước ta như có bàn tay vô hình mở rộng diện tích thêm ra theo thời gian.
Màu xanh của rừng đước ven bờ càng ngày càng vươn ra xa hơn. Những bộ rễ vững chắc, đồ sộ cắm sâu xuống bùn lại càng tạo điều kiện để phù sa lắng đọng dễ dàng, không bị các dòng hải lưu kéo ra biển cả. Ông Xuân Diệu đã viết về rừng rễ này như ngàn cánh tay ôm đất nước. Thật là một hình ảnh đẹp.
Ở đây vương quốc của tôm, cua, cá và của các động vật nhuyễn thể ngày đêm phát triển không ngừng.
Tàu chúng tôi chạy vòng về phía Nam mũi Cà Mau, đi vào Vịnh Thái Lan. Lớn lên trên đất liền miền Bắc, từ nhỏ tôi quen với cảnh mặt trời mọc từ biển và lặn sau những rặng núi phía Tây nên điều làm tôi ngạc nhiên đầu tiên khi thấy mặt trời mọc lên từ phía đất liền và lặn vào biển cả. Một hiện tượng thiên nhiên kỳ thú mà chắc bạn sẽ say mê như tôi khi thấy chùm tia sáng tỏa ra từ dưới nước như hình rẻ quạt kéo dài trên nền trời, biến đổi liên tục màu sắc khi mặt trời chìm dần vào làn nước tím sẫm lúc hoàng hôn.
Bắt đầu vào ngày làm việc đầu tiên trên vùng biển mới, cả đoàn tập trung quanh chiếc bàn hẹp ở phía khoang giữa của tàu để nghe bác Thắng và chú Lâm giới thiệu về địa chất Vịnh Thái Lan mà phần thuộc Việt Nam được gọi là bể Mãlai - Thổ Chu.
Chú đầu bếp kiêm tiếp tân trên tàu chiêu đãi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê Trung Nguyên, mùi thơm bốc lên ngạt ngào làm cho căn phòng trở nên ấm cúng và gần gũi với đất mẹ rất nhiều, trong lúc con tàu vẫn dập dềnh nâng lên hạ xuống theo vũ điệu của sóng trong một vùng biển hẹp.
Đưa tay trên tấm bản đồ với vô số những đường ngoằn ngoèo mô tả độ sâu của mặt đáy tầng trầm tích, chú Lâm kể cho mọi người nghe rằng Vịnh Thái Lan cũng có lịch sử địa chất gần như Biển Đông, hình thành từ quá trình sụt lún, tách giãn phần này của vỏ quả đất vào đầu kỷ Đệ Tam.
Các đứt gãy sâu theo hướng Tây Bắc - Đông Nam cùng các đứt gãy nhỏ hơn theo các phương khác chia vùng này thành rất nhiều khu vực nhỏ, lấp đầy bởi các trầm tích có tuổi và bề dày khác nhau do phù sa của các hệ thống sông Cửu Long, sông Chao Phraya (Thái Lan) và các sông nhỏ xung quanh vùng này cung cấp.
Toàn bộ Vịnh Thái Lan giống như một lòng máng không đối xứng, đường trục sâu nhất nằm về phía gần Malaysia. Ở đó bề dày trầm tích lên đến 12km và cũng là nơi có giá trị kinh tế lớn nhất xét về tài nguyên dầu khí.
Gần vùng này trên bản đồ có một khu vực được đóng khung theo hình tam giác, diện tích rộng đến 1.300km2, tô màu hồng nhạt với hàng loạt các mỏ dầu khí từ nhỏ đến trung bình, mang tên các loài hoa nhưng bằng tiếng Mã Lai như Bunga Kekwa, Bunga Orkid, Bunga Raya, Bunga Pakma, v.v... Thấy tôi có vẻ thắc mắc bác Thắng giải thích ngay, đó là khu vực chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia, gọi tắt là khu PM3.
Mắt tôi tròn xoe chứng tỏ tôi cũng chẳng hiểu gì cả. Ông âu yếm đặt bàn tay to khỏe của ông lên vai tôi kéo tôi lại gần. Đó là vùng mà cả Việt Nam lẫn Malaysia đều cho là của mình, ông nói. Sở dĩ có vùng đó là vì Luật biển quốc tế qui định rằng, nếu vùng biển giữa hai nước trong quá khứ lịch sử chưa được phân chia thì nay phân chia theo nguyên tắc nối hai điểm trên đường cơ sở của hai lãnh thổ lại với nhau và chia đôi, mỗi nước một nửa.
Ở Vịnh Bắc Bộ, vào cuối thế kỷ 19, chính quyền đô hộ Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc) đã phân chia theo một đường thẳng song song với đường kinh tuyến, bắt đầu từ điểm tận cùng của đất liền thuộc thị xã Móng Cái, kéo dài xuống gần cửa Vịnh và đã tồn tại đến 100 năm. Nhưng gần đây Trung Quốc không công nhận, bắt buộc phải chia lại theo nguyên tắc đường trung tuyến qui định trong Luật biển quốc tế. Hai bên phải áp dụng nguyên tắc đường trung tuyến nói trên nên bây giờ đường giới hạn mới là một đường ngoằn ngoèo, uốn cong về phía Việt Nam, đem phần lợi về cho Trung Quốc vài trăm cây số vuông so với trước.
Trường hợp giữa ta và các nước ASEAN có khác vì vùng biển trước đây chưa được phân chia nên tất nhiên là phải áp dụng nguyên tắc đường trung tuyến. Nhưng điều không rõ ràng là “hai điểm trên đường cơ sở của hai lãnh thổ” là điểm nào? Phía Malaysia không có đảo nên điểm đó phải nằm trên bờ biển đối diện với Việt Nam. Nhưng phía Việt Nam lại có đảo Thổ Chu, tuy nhỏ nhưng đó là lãnh thổ của ta nên ta lấy điểm nằm gần bờ đảo này làm mốc. Còn Malaysia lại cho rằng điểm đó nằm trên bãi biển Cà Mau. Do sự nhìn nhận khác nhau này nên các điểm trung tuyến không trùng nhau, tạo ra một vùng gọi là vùng chồng lấn.
Trong lúc chờ đợi hai chính phủ đàm phán phân chia giới hạn biển chính thức, để trình Quốc hội hai nước thông qua thì hai bên, trên tinh thần hữu nghị, đồng ý khai thác tài nguyên chung ở vùng đó, mỗi bên được một nửa quyền lợi.
À ra thế! Ngày 18-9-1996 mỏ dầu Bunga Kekwa được bắt đầu khai thác và đến nay sản lượng đạt khoảng 45.000 thùng/ngày. Mấy năm gần đây vài mỏ nữa cùng đã đi vào khai thác, đem lại một khoản thu nhập đáng kể cho mỗi nước, nhất là gần đây giá dầu tăng cao trên mức 90USD/thùng.
Cũng vì lý do tương tự mà trên Vịnh Thái Lan còn có những vùng chồng lấn khác, giữa Việt Nam và Campuchia, giữa Việt Nam và Thái Lan, giữa Việt Nam- Malaysia-Thái Lan, hoặc Việt Nam - Thái Lan - Campuchia, v.v…
Chắc chắn là việc tranh chấp ở Vịnh Thái Lan sẽ được giải quyết hợp tình hợp lý vì các bên tham gia tranh chấp đều có thiện chí, dựa trên tình hữu nghị láng giềng tốt.
Ở phần biển phía bên Việt Nam, các nhà thầu Petro Fina (Bỉ), Unocal (Mỹ) cũng đã tìm ra một số mỏ dầu khí nữa mang tên Năm Căn, Đầm Dơi, Cái Nước, Cá Voi, Kim Long, Ác Quỷ. Giếng khoan Năm Căn kết thúc ngày 31-3-1996 ở độ sâu 2.708m, xác định được một số vỉa chứa dầu khí, mở đường cho việc khoan tiếp giếng Đầm Dơi sâu 2.435m. Thử vỉa 4 tầng chứa cho kết quả tổng cộng 4.000 thùng dầu - condensat/ngày và 1.6 triệu m3 khí/ngày. Giếng Cái Nước gặp bốn vỉa, cho lưu lượng tổng cộng 6.693 thùng dầu/ngày và 439 thùng condensat/ngày cùng 1.5 triệu m3 khí/ngày. Các giếng Cá Voi, Kim Long, Ác Quỷ gặp các lớp chứa khí, trữ lượng thu hồi ước tính đến 30 tỷ m3.
Các mỏ này là đối tượng khai thác trong những năm tới và khí đốt sẽ được đưa về phát điện, sản xuất phân đạm ở các khu công nghiệp Cà Mau, Ô Môn, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đồng bằng Cửu Long. Hiện nay đường ống dẫn khí đốt từ khu PM3 về Cà Mau đã đi vào hoạt động. Vào đầu năm 2008 này điện sản xuất từ khí đốt ở Vịnh Thái Lan đã có thể cung cấp cho bà con vùng Tây Nam Nam bộ, mang lại ánh sáng, niềm vui cho những con người đã rất anh hùng trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước trong suốt thế kỷ 20.
Tàu Bình Minh sẽ tiếp tục nghiên cứu vùng thềm lục địa phía Tây Nam để phát hiện thêm những mỏ mới, làm giàu cho Tổ quốc.
Đứng trên boong tàu nhìn vào đất liền là một không gian mênh mông vì không có dãy núi nào án ngữ. Châu thổ Cửu Long, vựa lúa của cả nước cùng các vườn cây ăn quả đặc sản nổi tiếng chỉ còn là một vệt mờ xanh ở chân trời. Lòng đất của vùng trù phú ấy sẽ được nghiên cứu để biết ở đó còn chứa đựng những tài nguyên quý giá gì nữa. Thế hệ chúng tôi sẽ thực hiện nhiệm vụ đó.
Tàu Bình Minh tiếp tục rẽ sóng, tiến sâu hơn về phía Tây Bắc. Trên đường đi chúng tôi gặp vô số các tàu đánh cá các cỡ, xuôi ngược nhộn nhịp trên mặt biển. Sự giàu có về tài nguyên thủy sản của Vịnh Thái Lan mới là điểm đặc biệt của vùng biển này so với các vùng khác.
Các nghiên cứu chưa đầy đủ cho thấy nhóm cá nổi có đến 40 loài. Nhóm này luôn sống ở tầng nước mặt, tập trung thành đàn lớn, di chuyển nhanh, thức ăn là những sinh vật nổi. Đại diện cho nhóm này là các họ cá trích, cá ngừ, cá chim trắng, cá cơm… nguồn nguyên liệu sản xuất ra các loại nước mắm nổi tiếng trên thế giới mang thương hiệu Phú Quốc, một đảo lớn của Việt Nam mà tôi sẽ kể tiếp ở phần sau.
Nhóm cá đáy còn phong phú hơn, có đến gần 200 loài, sống sát đáy hoặc tầng nước gần đáy, cả vùng ven bờ lẫn ngoài khơi. Một số loài sống thành đàn, số loài khác lại sống riêng lẻ. Thức ăn của chúng là sinh vật đáy, cá con. Giá trị kinh tế lớn, là đối tượng của nghề lưới giã, lưới rùng, cung cấp một lượng thực phẩm lớn cho các thị trường trong và ngoài nước.
Những năm trước đây hoạt động xuất khẩu chưa phát triển, người dân còn dùng cá đánh bắt được làm phân bón, làm thức ăn cho gia súc và cả cho cá, tôm, cua, đồi mồi. Vịnh Thái Lan quả là một kho cá lớn lao, có mặt gần đủ các loài trong đó nhiều loài rất quí hiếm. Nếu ta có kế hoạch đánh bắt hợp lý, không thu hoạch trong mùa cá sinh sản, không hủy diệt cá con, cá chưa đủ lớn thì đàn cá sẽ tái sinh liên tục.
Tôi muốn kể cho các bạn nghe bao nhiêu chuyện về cá, tôm cua, sò, mực ở vùng này để bổ sung cho những chuyện mà tôi đã kể trong các chương trước, để các bạn thấy câu nói “biển nước ta là biển bạc” quả là không ngoa chút nào. Hẹn một dịp khác vậy.
Xa xa trước mũi tàu hiện lên một quần thể đảo nhỏ như cả một hạm đội đang canh giữ sự bình yên cho ngư dân trên biển. Đó là quần đảo An Thới. Quần đảo này có đến 18 đảo nhỏ nhưng chỉ có năm đảo có người sinh sống. Hòn Thơm đông dân nhất. Trên đảo có miếu thờ thần núi, thần biển từ rất xa xưa, ghi dấu ấn của những tín ngưỡng bản địa của một nền văn hóa có lẽ đã từng phát triển rất sớm.
Sát mặt Bắc Hòn Thơm các ghềnh đá nằm san sát, ngâm nửa mình dưới làn nước xanh như tỏ ra mình là những người mê tắm biển nhất đời. Trên Hòn Thơm những hàng dừa cao vút chạy dọc suốt bờ đảo. Dưới bóng dừa thấp thoáng một số căn nhà lá của dân đánh cá cấu trúc rất đơn sơ. Cảng Hòn Thơm nằm ở phần giữa đảo, thuyền đánh cá địa phương và cả của các nơi khác về đây nghỉ ngơi sau những giờ làm việc vất vả.
Cứ đến mùa gió Nam họ lại tụ tập lên phía Bắc và đến mùa gió bấc họ lại di chuyển về phía Nam giống như cảnh các bãi cát ở Trường Sa đối phó với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Len lỏi giữa các chiếc thuyền lim dim ngủ là những con thuyền bé tèo teo, các cô bé vừa bơi thuyền vừa rao bán mực tươi, tôm, ghẹ, bia phục vụ cho dân chài ăn nhậu.
Không xa Hòn Thơm là Hòn Rỏi và Hòn Dừa. Sát Hòn Rỏi là những dãy phao tròn nhấp nhô trên sóng. Đó là những lồng nuôi trai lấy ngọc, một nghề hái ra tiền ở đây. Trai được chọn lọc kỹ, cấy một hạt nhựa hoặc một hạt vỏ ốc vào thịt, chất ngọc do trai sản sinh sẽ phát triển dần bao bọc kín vật được cấy, trở thành những hạt ngọc tròn lấp lánh. Lồng nuôi trai bằng sắt có bọc lưới, thả lơ lửng cách đáy biển hai mét và trai tự kiếm thức ăn từ những phiêu sinh vật chứ ít khi được người nuôi cung cấp.
Hòn Dừa tuy ít dân nhưng phong cảnh lại rất kỳ thú. Biển xanh sóng vỗ quanh năm, đập vào ghềnh đá xám tung bọt trắng xóa một vùng. Núi nhấp nhô, điểm xuyết giữa màu xanh của cây cỏ là những căn nhà như cảnh ta thấy ở những vùng cao nguyên. Trên triền núi kéo dài xuống sát mé biển là những vườn dừa, xoài và các loại cây ăn quả khác, trái treo đầy cành, trông thật thích mắt. Có những cây mọc cheo leo trên vách đá như lúc nào cũng sẵn sàng lao xuống biển. Ai muốn sống một cuộc đời yên tĩnh, gắn mình với thiên nhiên thì đến đây sẽ rất hài lòng.
Qua khỏi quần đảo An Thới là nhìn thấy ngay đảo Phú Quốc, một đảo lớn còn có tên là đảo Ngọc, nằm trong quần thể 22 đảo trong Vịnh Thái Lan, hợp thành huyện Phú Quốc của tỉnh Kiên Giang. Tổng diện tích huyện đảo rộng đến 593,05km2, riêng đảo Phú Quốc chiếm 574km2, suýt soát với diện tích quốc đảo Singapore. Thủ phủ của huyện đảo là thị trấn Dương Đông, nằm ở phía Bắc đảo, nơi rộng nhất đến 25km.
Những lúc trời quang, đứng ở Dương Đông có thể nhìn thấy Hà Tiên, một thắng cảnh trên đất liền, cách đảo 45km. Núi Chúa cao ngất, 603m, như một cột cờ hoành tráng thông báo chủ quyền của nước ta trên vùng biển Tây Nam. Địa hình thoải dần từ Nam lên Bắc với 99 ngọn núi nhấp nhô. Biển sâu trên mười mét nước.
Từ 1671, Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Đông, Trung Quốc chạy loạn đến Hà Tiên lập ấp, đến 1708 trở thành thuộc hạ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Đến đời con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ, người được triều đình Huế giao trấn thủ vùng này, được vua Campuchia là Nặc Nguyên và Nặc Tôn tặng đất bao gồm cả Phú Quốc và đem cả vùng này nhập vào lãnh thổ nước ta dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Dân số Phú Quốc đến nay là 80.000 người. Giang sơn Phú Quốc thật là cẩm tú, nên thơ. Gần Dương Đông có một bãi đá màu thẫm nổi trên nền cát trắng và biển xanh, nơi có Dinh Cậu nổi tiếng linh thiêng. Dân chài từ lâu lập đền này để thờ thần biển cầu xin phù hộ cho cư dân khi đi đánh cá vượt qua được sóng to gió dữ, làm ăn thuận lợi. Cạnh đó còn có cây hải đăng chỉ đường cho tàu thuyền qua lại ban đêm.
Suối Tranh trên đảo đẹp như tên gọi. Dòng nước bắt nguồn từ trên cao ở dãy Hàm Ninh len lỏi qua các vạt rừng, các khe đá rồi đổ xuống thành các thác nhỏ, hợp nhau lại thành suối dài đến 15km. Hai bờ đầy hoa thơm cỏ lạ. Những đám cây hình khẳng khiu, rắn rỏi mọc chen kẽ đá, cành khảm đầy những nhánh phong lan, hoa vàng, trắng, tím, đỏ kết nối nhau thành chuỗi treo lơ lửng giữa không trung. Mỗi khi cơn gió nhẹ thoảng qua mùi hương dìu dịu lại lan tỏa khắp vùng. Dọc theo suối có những hang động cao, loài dơi về trú ngụ treo mình dày đặc trên vách đá, không những tạo ra cảnh quan lạ mắt mà còn cung cấp cho dân địa phương một lượng phân tự nhiên quý giá, phục vụ cho nông nghiệp và cho cả nghề làm thuốc nổ.
Ở phía Bắc đảo còn có đền thờ Nguyễn Trung Trực, người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến kéo dài 7 năm sau khi nhà Nguyễn đã nhượng Nam bộ cho Pháp hồi cuối thế kỷ 19, và là người có câu nói bất hủ trước khi hy sinh: “Bao giờ hết cỏ Tháp Mười, thì dân Nam mới hết người đánh Tây”. Tượng trưng cho truyền thống bất khuất của toàn dân tộc còn có nhà tù Phú Quốc, khét tiếng dã man không kém nhà tù Côn Đảo, nơi giam giữ hàng nghìn chiến sĩ cách mạng cận đại, nhất là các chiến sĩ thời kháng chiến chống Mỹ.
Nhờ khí hậu tốt, Phú Quốc có rất nhiều khu rừng nguyên sinh phát triển đến nay vẫn còn nguyên vẹn, diện tích đến 8.700 ha, được nhà nước khoanh vùng thành rừng quốc gia với 530 loài thực vật bậc cao, 365 loài chim, 150 loài động vật và hơn 1.000 loài dược thảo như cam thảo, hà thủ ô, bí kỳ nam, nhân trần, đỗ trọng, sa nhân. Ở đây trồng rất nhiều vườn điều, hồ tiêu chất lượng và năng suất cao, riêng hạt tiêu khô năm 2007 đạt đến 1.500 tấn, góp phần quan trọng đưa nước ta thành nước xuất khẩu số một trên thế giới về hạt điều và thứ hai thế giới về hạt tiêu.
Đặc sản của Phú Quốc ngoài nước mắm mà cả Thái Lan cũng mượn thương hiệu để xuất khẩu còn có cá khô, nấm tràm, các loại rượu thuốc đặc hiệu, các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và đặc biệt là giống chó ở Việt Nam không nơi nào có. Chó Phú Quốc có xoáy trên sống lưng, là một trong ba dòng chó có xoáy lưng trên thế giới. Chó biết đào hang để đẻ con, có biệt tài săn thú, biết bơi giỏi như rái cá nhờ bàn chân có màng như chân vịt. Lông mượt và ngắn, khi bị ướt chỉ cần rùng mình là toàn bộ nước bắn ra hết.
Người ta đồn rằng chó Phú Quốc có thể đánh nhau với rắn độc vì ở lưỡi của nó có chất bọt chống được chất độc của nọc rắn. Thật là một thông tin hấp dẫn, các nhà khoa học cần phải xác minh. Chó Phú Quốc với các đặc trưng quý giá là nguồn cung cấp cho đội quân chó trinh sát mà lực lượng an ninh và quân đội ta đang rất cần.
Vùng biển Tây Nam của nước ta có đến 150 đảo lớn nhỏ, liên kết với nhau gần suốt chiều dài của vịnh, trở thành những căn cứ tiền tiêu chiến lược vô cùng quan trọng để bảo vệ tổ quốc, đồng thời cũng là cửa ngõ để chúng ta hòa nhập với thế giới, kết giao với bạn bè.
Đảo Phú Quốc với diện tích rộng lớn, tài nguyên giàu có, nhất là gần nhiều mỏ dầu khí của ta cũng như của Campuchia, Thái Lan, Malaysia, có nhiều điều kiện để xây dựng thành một khu du lịch cao cấp, một khu công nghiệp đa ngành phát triển và một trung tâm thương mại của cả khu vực Đông Nam Á chẳng kém Singapore.
Một khi dự án kênh đào Nam Thái Lan được xây dựng nối liền Biển Đông với vịnh Bengal, thông thương với Ấn Độ Dương thì tầm quan trọng của Phú Quốc càng được nâng lên gấp nhiều lần. Hiện nay nhiều nước đã đến đầu tư vào Phú Quốc. Đường bay nội địa của hàng không Việt Nam đang được mở rộng, giúp cho hòn đảo này càng gần với đất liền và với các trung tâm kinh tế toàn cầu. Chừng 20 năm nữa, khi tôi trở thành một người thành đạt, chắc chắn tôi cũng sẽ đầu tư vào Phú Quốc, góp phần bé nhỏ của mình để hòn đảo này thực sự trở nên một khu vực giàu sang, một hòn ngọc quý như tên gọi của nó trên vùng biển cực Tây của đất nước.
Rời Phú Quốc tôi về Rạch Giá, đi thăm Hà Tiên, ngắm Hòn Dương, Hòn Trẹm, Hòn Phụ Tử, chùa Hang và các động rải rác khắp chiều dài của bờ biển Tây Nam Bộ. Nơi nào cũng cuốn hút tôi, không những bởi những gì được thấy hiện nay mà cả những đề án tương lai. Việt Nam, tổ quốc của tôi, của chúng ta nhất định sẽ cường thịnh, văn minh, hiện đại. Đó là niềm tin mãnh liệt của tôi sau chuyến đi dài ngày và rất thú vị này.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận