![]() |
Khái niệm “độc lập” giữ vị trí trung tâm trong bối cảnh này. Trước hết, Durkheim sử dụng nó để nhấn mạnh vào thực tế rằng “nghề giáo viên” có thể tạo ra những đại diện sư phạm của mình và thông qua đó, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của hệ thống xã hội. Song ông cũng dùng khái niệm đó để khẳng định yêu cầu của những cá nhân có giáo dục, tán thành và chủ động tham gia vào quá trình đảm bảo kỷ luật và sự sáp nhập nhóm. Trong cả hai trường hợp, sự độc lập này chỉ mang tính tương đối, bởi hệ thống trường học phụ thuộc vào những yêu cầu của hệ thống xã hội và cá nhân được xã hội hoá có thể làm nhiều hơn là đóng góp vào sự tồn tại của xã hội mình thông qua những cam kết tự nguyện.
Tất cả những tư tưởng về giáo dục của Durkheim cần phải được xem xét trong bối cảnh thuyết tương đối hai chiều này. Liệu phương pháp sư phạm của Durkheim có thể được rút gọn lại thành một phương pháp giáo dục về thẩm quyền? Liệu có thể coi bảo thủ là đặc tính cố hữu của phương pháp đó? Điều này có nghĩa là bỏ qua thực tế rằng nhiệm vụ của những phân tích xã hội học là nhằm bảo vệ chống lại “chủ nghĩa duy lý” theo lối đơn giản hoá, và giải thích tính phức tạp của sự vật bởi trong chúng luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn.
Mặc dù giáo dục là “vấn đề về thẩm quyền” nhưng giáo viên cũng phải có đầy đủ thẩm quyền để cản trở việc nhà trường trở thành “nguồn gốc của sự độc ác” (Giáo dục luân lý). Để làm cho học sinh có đủ thẩm quyền trở thành những cá nhân độc lập, giáo viên phải nhận thức được những nguy cơ tiềm ẩn trong “xã hội quân chủ” của lớp học và trong những khuynh hướng “hoang tưởng tự đại” của chính mình.
Nhưng điều đặc biệt trong phương pháp giáo dục “gắn bó với tập thể” là chúng ta phát hiện ra trong tư tưởng của Durkheim một điều không đơn thuần là đào tạo một cách dễ dãi. Nếu chúng ta xem chương viết về sự gắn bó với tập thể trong cuốn Giáo dục luân lý về ý nghĩa của khái niệm này trong ý niệm tổng thể về động lực xã hội, chúng ta có thể thấy rằng, mục đích của việc chuẩn bị cho trẻ đời sống tập thể và khắc sâu tinh thần tập thể là nhằm truyền cho trẻ một ý chí để “thể hiện những hình thức hoạt động của mình trong một tập thể”, bao gồm cả hoạt động của những công dân trong tương lai. Một cá nhân đơn độc và biệt lập không thể làm thay đổi hiện trạng của xã hội mà chỉ có thể đem sức mạnh tập thể đấu với sức mạnh tập thể. Không một hành động nào có hiệu quả đối với xã hội, nếu không biết kết hợp sức mạnh của các cá nhân. Đây là lý do tại sao trong yêu cầu hành động để xây dựng một xã hội “mang tính cá nhân” cần phối hợp giữa nỗ lực và tham vấn giữa các nhân tố xã hội. Ở trường học, trong phạm vi nhóm tự nhiên của lớp học, có thể thấy làm thế nào một cá nhân cô lập không thể làm gì để chống lại những điều xấu xa của xã hội. Cho nên, cần phải phối hợp nỗ lực của các cá nhân, phải trở thành một nhóm có tổ chức nhằm đem lại hiệu quả.
Trong quan điểm của Durkheim, khả năng cải cách này là nhân tố mang tính quyết định trong việc thúc đẩy sự phát triển của một xã hội cá nhân hoá. Đó là lý do tại sao ông nhấn mạnh vào trạng thái của lĩnh vực sư phạm như một hệ thống nhỏ, trong đó, các công dân tương lai sẽ học, thông qua phương pháp tự mò mẫm (phương pháp thử và sai) có tính đến sức mạnh sáng tạo của tập thể và học trải qua những giá trị tập thể của xã hội hiện đại đang xuất hiện. Đó là nội dung trung tâm trong kế hoạch của Durkheim về giáo dục trong nhà trường, một kế hoạch xuất phát từ mong muốn của một nhà xã hội học tham gia và bảo đảm sự tham gia của hệ thống giáo dục vào sự phát triển của xã hội và cũng làm cho giáo viên nhận thức được những vấn đề này.
![]() |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận