17/02/2009 10:00 GMT+7

Tiếng Anh và tử vi

(TBKTSG, ngày 7-12-2006)
(TBKTSG, ngày 7-12-2006)

TTO - Thật là một ngạc nhiên thú vị khi biết Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố một công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học người Việt về... tử vi và số mệnh con người.

mVQrzrX6.jpgPhóng to
TTO - Thật là một ngạc nhiên thú vị khi biết Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố một công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học người Việt về... tử vi và số mệnh con người.

Trong tài liệu dài 37 trang mang tựa đề “Superstition, Family Planning, and Human Development” của hai ông, TS. Đỗ Quý Toàn (WB) và ThS. Phùng Đức Tùng (Tổng cục Thống kê), các tác giả đã nghiên cứu tác động của tâm lý mê tín của người dân Việt Nam lên chuyện sinh con và rút ra kết luận những đứa sinh vào “năm tốt” hóa ra vừa có sức khỏe tốt hơn, lại được học hành đến nơi đến chốn hơn. Xin nói ngay, đây không phải là chuyện đoán số tử vi vì hai tác giả, trong phần abstract (tóm tắt) đã nhận xét: “In a society in which superstition is widespread, children born in auspicious years are more likely to have been planned by their parents, thus benefiting from more favorable financial, psychological, or emotional conditions for better human development”. Như vậy yếu tố kế hoạch hóa gia đình (nhân đó, chọn năm tốt để sinh con) dẫn đến sự chuẩn bị tốt về điều kiện tài chính, tâm lý, tình cảm nên trẻ có cơ hội tốt hơn để phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần.

Ở đây, chúng ta chỉ lấy công trình nghiên cứu rất công phu này để tìm hiểu xem những khái niệm chấm số tử vi thường nghe được diễn đạt như thế nào bằng tiếng Anh mà thôi.

Trước hết, “năm tốt” là auspicious years: “We find that birth cohorts in auspicious years are significantly larger than in other years” (cohort là từ trong ngành thống kê, chỉ nhóm người, quần thể, đoàn hệ). Theo các tác giả, số trẻ sinh vào năm tốt cao hơn các năm khác bình quân đến 7% - Years that are believed to bring good luck to either boys or girls have birth cohorts on average 7 percent larger than other years.

Hai khái niệm cơ bản trong tướng số là Yin và Yang (Âm - Dương): “Yang is as positive, masculine, left, high and tough as Yin is negative, feminine, right, low and soft”. Chú ý cấu trúc so sánh trong câu trên, mang nghĩa trong khi... còn... Ví dụ: Alice is as beautiful as Mary is smart. Ngoài ra còn có ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - the tension between Yin and Yang was related to the five elements: Metal, Wood, Water, Fire and Earth.

Năm Âm lịch thường có hai yếu tố: Can (Gan - a celestial prefix) và Chi (Zhi - a terrestrial appellation). There are 12 terrestrial appellations also known as zodiac animals (Rat, Ox, Tiger,...), while a celestial prefix is a combination of Yin or Yang and one of the five elements, yielding a total of 10 prefixes. Có các từ terrestrial và celestial là vì từ chính thức người ta dùng Thiên Can và Địa Chi. Đáng chú ý là tử vi của Tàu gán năm Mão là con thỏ trong khi người Việt cho nó là con mèo. Ghép 10 Thiên Can và 12 Địa Chi, chúng ta sẽ có chu kỳ 60 năm, như Giáp Tý, Ất Sửu...

Tử vi, tướng số là xem giới tính của trẻ có hợp với năm sinh không, dựa vào nhiều yếu tố. For example, a year characterized by Yin is on average more compatible with girls than with boys, while the reverse holds for Yang years. Compatible ở đây là hợp, còn hold for ở đây là trong trường hợp. Thực tế thì phức tạp hơn nhiều, như các tác giả nhận xét: A complete astral theme would also look at parents dates and times of birth and their compatibility with their childs to refine the horoscope. A complete astral theme ở đây là chấm số tử vi đầy đủ.

Trong nghiên cứu này, có những từ tiếng Anh không liên quan đến tướng số nhưng cũng đáng chú ý. Các tác giả dùng từ marginal child - defined as the child who would be born in the absence of an abortion ban - tức là đứa con “vỡ kế hoạch” để đối chiếu với đứa con “nằm trong kế hoạch” - planned child và đặt câu hỏi: “Are “wanted” and “unwanted” children treated equally by their parents?” Câu hỏi này cũng chính là đề tài của công trình nghiên cứu.

Phương Tây cũng có horoscope, nhưng dựa vào vị trí của mặt trời (sun sign astrology) nên ta thường nghe hỏi: “Hey, what’s your sign?”. Một người nói: “I’m a Leo” có nghĩa anh ta sinh trong khoảng thời gian từ 24-7 đến 23-8. Hàng ngày, có hàng ngàn tờ báo hay trang web chuyên đoán số tử vi loại này và những tờ nào “dí dỏm” đoán theo kiểu hài hước tự đặt tên mục này là humorscope. Ví dụ: Capricorn (December 22 - January 20): You will accidentally step on someone’s foot, and they will say “Ow!.” That’s when I usually say “No pain, no gain”.

Thật ra, ở những tờ báo lớn, những trang web có uy tín như Yahoo! các mục tử vi đoán số này do những chuyên gia tâm lý đảm trách. Họ viết sao cho ai đọc vô cũng thấy đúng cho mình. Một cây bút kỳ cựu mục này từng viết: “People are looking at the horoscope like they would a weather report or a stock report. What’s up today? Basically is it a good day or a bad day? If it’s a bad day, what do I need to know to get around it?”. Thỏa mãn được tâm lý tò mò này phải nói là đại giỏi.

(TBKTSG, ngày 7-12-2006)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên