Phóng to |
| Chất lượng nước đầu ra tại Nhà máy nước Thủ Đức luôn được kiểm tra chặt chẽ. Trong ảnh: kỹ sư Hồ Thị Khánh (đeo kính) - ban kiểm nghiệm Nhà máy nước Thủ Đức - đang kiểm tra chất lượng nước đầu ra |
Tuy nhiên, theo các chuyên gia môi trường, nhiễm mặn nước sông Sài Gòn có thể chỉ là chuyện “thời vụ”. Còn chuyện ô nhiễm đang xảy ra và diễn biến phức tạp trên sông Sài Gòn và Đồng Nai mới đáng lo ngại hơn. Mối nguy này mới thật sự uy hiếp các nhà máy cấp nước và ảnh hưởng đến hàng triệu người sử dụng...
Hết nguồn nước trong lành!
Ông Lê Văn Khoa, chi cục phó Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM, cho biết đáng lo ngại nhất là tình trạng ô nhiễm vi sinh trên các sông cung cấp nước nguồn cho các nhà máy xử lý nước cấp của TP.HCM. Kết quả phân tích vi sinh (coliform) năm 2004 tại trạm Hóa An (trên sông Đồng Nai) - khu vực lấy nước cho Nhà máy nước Thủ Đức (TP.HCM) - đã ghi nhận mức độ ô nhiễm vi sinh dao động 1.250-285.000 MPN/100ml, trong khi tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nước tại nơi này chỉ 5.000 MPN/100ml.
Còn giá trị tổng vi sinh trung bình năm 2004 tại trạm Hóa An đo được là 56.500 MPN/100ml, vượt tiêu chuẩn nước mặt loại A đến 11,3 lần. Lý giải sự đột biến này, ông Lê Văn Khoa nói vi sinh vọt lên rất cao là do nước thải sinh hoạt, nước thải của các nhà máy chế biến thực phẩm, các hoạt động nuôi trồng thủy sản... đổ ra gây ô nhiễm. Đó là chưa kể đến nạn ô nhiễm dầu tại khu vực trạm Hóa An. Nồng độ dầu tại khu vực này không đạt tiêu chuẩn cho phép trong nhiều năm liền.
Trong khi đó, GS.TS Lâm Minh Triết, nguyên viện trưởng Viện Môi trường và tài nguyên, ĐH Quốc gia TP.HCM, so sánh 10 năm trước đây giá trị BOD5 - nhu cầu oxy sinh hóa, chỉ tiêu biểu thị sự ô nhiễm hữu cơ - đo được tại khu vực Hóa An trung bình chỉ khoảng 2-3mg/l.
Nhưng giờ đây BOD5 tại khu vực tăng cao khoảng gấp đôi so với thời điểm trước. GS.TS Lâm Minh Triết đánh giá: “Chất lượng nước sông Đồng Nai tại khu vực Hóa An đang diễn biến theo chiều hướng ngày một xấu hơn”. Còn ở các khu vực hạ lưu đập Trị An trên sông Đồng Nai, đập Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, sông Thị Vải... nguồn nước có dấu hiệu ô nhiễm và nhiều nơi đã ô nhiễm nặng, đặc biệt là các kênh rạch nội thành, nội thị và xung quanh các vùng phát triển công nghiệp tập trung.
Ông Lê Văn Khoa nói đáng báo động nữa là hiện tượng nhiễm bẩn nước xuất hiện nhiều hơn ở các khu vực ngoại thành, những vùng vốn còn khá trong lành cách đây vài ba năm, như khu vực kênh Thầy Cai, An Hạ (Hóc Môn, Củ Chi), kênh Tiêu Ba Bò... Điều đáng nói hơn, sông Sài Gòn phải hứng hầu hết các chất ô nhiễm nhất từ các kênh rạch nội thành. Trên sông Đồng Nai cũng gặp phải tình trạng tương tự.
Chi phí xử lý: 10.000đ/m3 nước!
Theo giới chuyên môn, khi các chất ô nhiễm trong nước nguồn tăng cao, chi phí xử lý tất sẽ tăng, giá thành 1m3 nước sạch sẽ đội lên cao và người dân xài nước sạch sẽ trả một mức giá cao hơn nữa.
Theo nhóm nghiên cứu của GS.TS Lâm Minh Triết, khi nước nguồn tại Hóa An bị ô nhiễm hữu cơ 10mg/l (dự báo là đến năm 2010) Nhà máy nước Thủ Đức phải dời địa điểm lấy nước đi nơi khác hoặc cải tạo hệ thống xử lý theo công nghệ thích hợp với nước nguồn ô nhiễm ở mức cao.
Nhóm nghiên cứu cũng thử tính toán, trong trường hợp Nhà máy nước Thủ Đức phải cải tạo hệ thống xử lý thì chi phí xử lý tại đây có thể tăng lên khoảng 10.000đ/m3. Lấy số lượng nước (từ Nhà máy nước Thủ Đức) được người dân tiêu thụ bình quân khoảng 650.000m3/ngày thì chi phí xử lý tăng thêm lên đến gần 6 tỉ đồng/ngày.
Có thể gọi đây là những tổn thất do ô nhiễm môi trường gây ra và là một gánh nặng thật sự cho xã hội. Đó là con số mới thử tính toán ở Nhà máy nước Thủ Đức. Còn nhà máy nước lấy nước nguồn trên sông Sài Gòn thì sao, trong khi nhiều nguồn ô nhiễm khác nhau đang đổ về con sông này? Đây là một điều đáng lo ngại hơn cả!
|
Đề xuất hạn chế dùng nước ngầm Đầu tháng 7-2004, TP.HCM bắt đầu áp dụng giá nước mới. Người dân dù đã chuẩn bị tinh thần cũng không lường được giá tăng cao đến như vậy. Giá tăng thấp nhất là 500 đồng/m3, cao nhất 4.800 đồng. Lý do giá tăng đột biến theo ngành cấp nước là trong nhiều năm qua bị “kềm” giá, không tăng đúng như lộ trình nên giá bán ra phải bù lỗ. Tăng giá nước còn để khuyến khích khách hàng tiết kiệm nước sinh hoạt. Với nhiều khách hàng, giá nước tăng là tăng thêm gánh nặng trong chi tiêu gia đình, buộc phải điều chỉnh nhu cầu sinh hoạt: sử dụng tiết kiệm hoặc thay thế bằng nguồn nước ngầm. Ngay cả các cơ quan nhà nước, nhà hàng, khách sạn… cũng áp dụng phương pháp này. Trong năm 2004 tổng công suất phát ra tăng trên 26%, lượng đồng hồ gắn mới tăng 25% nhưng sản lượng nước tiêu thụ chỉ tăng 2,98%! Tình hình này khiến ngành cấp nước lo lắng. Một giám đốc chi nhánh cấp nước tính toán trong tháng 8-2004 (sau một tháng áp dụng giá nước mới) so với tháng 6-2004 sản lượng nước sạch bán ra giảm hơn 100.000m3. Bình quân mỗi đồng hồ giảm hơn 3m3 nước/tháng. Có nguồn nước nhưng không bán hết, trong khi mỗi ngày ngành cấp nước vẫn phải trả lãi vay từ vốn đầu tư dự án. Chưa kể việc khai thác tràn lan nước ngầm làm mực nước bị tụt, đất lún sụt. Những thiệt hại kép này khó có thể tính hết được. Một cán bộ ngành cấp nước cho rằng tình trạng trên sẽ không xảy ra nếu giá nước tăng ở mức độ hợp lý hơn. Theo chỉ đạo của UBND TP.HCM, Công ty Cấp nước đang thống kê, lên danh sách các đơn vị khai thác sử dụng nước ngầm để đề xuất hạn chế sử dụng. |

Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận