25/04/2006 11:36 GMT+7

Sâu răng ở trẻ em

ThS. BS. NGÔ LÊ THU THẢO (Khoa RHM - ĐHYD Tp.HCM, Báo Sức khoẻ Đời sống)
ThS. BS. NGÔ LÊ THU THẢO (Khoa RHM - ĐHYD Tp.HCM, Báo Sức khoẻ Đời sống)

Sâu răng sớm ở trẻ em (eec) rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 30-50% ở các nước đang phát triển và đến 70% ở các nước phát triển. Trẻ bị sâu răng khi nhỏ tuổi được ghi nhận có nguy cơ bị sâu răng khi lớn lên, vì vậy phòng ngừa sâu răng sớm ở trẻ em giúp tránh được các vấn đề quan trọng về răng miệng sau này.

JhWZRdgM.jpgPhóng to
Sâu răng sớm ở trẻ em (eec) rất phổ biến, chiếm tỷ lệ 30-50% ở các nước đang phát triển và đến 70% ở các nước phát triển. Trẻ bị sâu răng khi nhỏ tuổi được ghi nhận có nguy cơ bị sâu răng khi lớn lên, vì vậy phòng ngừa sâu răng sớm ở trẻ em giúp tránh được các vấn đề quan trọng về răng miệng sau này.

Cơ chế gây bệnh

Sự hình thành sâu răng phụ thuộc vào các acid hữu cơ được tạo ra từ sự lên men các carbohydrate trong thức ăn do vi khuẩn làm giảm độ pH ở các mảng bám răng và tạo ra các chỗ bị mất khoáng. Sang thương sâu răng ban đầu có dạng các điểm trắng đục trên men răng, và lỗ sâu răng sẽ xuất hiện khi tình trạng mất khoáng tiến triển.

Nhóm các vi khuẩn streptococcus mutans có liên quan đến sự hình thành sâu răng. Các vi khuẩn này có khả năng bám dính vào men răng, tạo ra nhiều chất acid và sống ở môi trường pH thấp. Khi men răng bị thủng lỗ, các loại vi khuẩn khác (các lactobacillus) sẽ sinh sôi ở răng, tạo ra môi trường acid và thúc đẩy hóa trình mất khoáng. Sự mất khoáng do acid được tạo ra từ vi khuẩn phụ thuộc nhiều vào số lần tiêu thụ và loại carbohydrate có trong thức ăn.

Triệu chứng, biểu hiện

Sâu răng trên răng sữa thường khởi đầu ở các hố và rãnh. Các sang thương nhỏ khó có thể phát hiện bằng mắt thường; nhưng các sang thương lớn thường có biểu hiện là lỗ thủng ở mặt nhai. Vị trí sâu răng thường gặp đứng hàng thứ 2 là ở mặt bên (mặt tiếp xúc giữa các răng), và rất nhiều trường hợp chỉ có thể phát hiện khi chụp X-quang răng. Các tổn thương do sâu răng biểu hiện ở các bề mặt trơn láng (mặt ngoài và mặt trong) thường chỉ gặp ở trẻ có sâu nhiều răng nghiêm trọng.

Tình trạng sâu nhiều răng nghiêm trọng ở trẻ em và trẻ nhỏ được gọi là sâu răng sớm ở trẻ em (early childhood caries - ECC), sâu răng bú bình (nursing bottle caries) hay sâu răng ở trẻ bú bình (baby bottle tooth decay) đã được ghi nhận không chính xác với thực tế bú bình. Tuy sự kết hợp giữa tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn gây sâu răng ở trẻ em và số lần ăn chất đường, có cả ở trẻ bú bình và trẻ ăn thức ăn đặc, là rất quan trọng song vẫn còn các yếu tố khác có vai trò quan trọng trong sâu răng như thiểu sản men các răng sữa vì thiếu dinh dưỡng trong thai kỳ hay vì sinh non.

Sâu răng sớm ở trẻ em (ECC) rất phổ biến. Bệnh có thể xuất hiện sớm trước 12 tháng tuổi, nhiều tháng trước khi trẻ được đưa đến bác sĩ nha khoa. Các đối tượng có nguy cơ bị ECC bao gồm trẻ thường xuyên ăn chất đường (thường xuyên dùng các thức uống, thức ăn có đường hoặc bánh snack), trẻ em nhập cư, trẻ có nhiều người thân như cha mẹ hay các anh chị em ruột bị sâu răng, và trẻ có dị dạng ở răng.

Các biến chứng

Nếu không được điều trị, tình trạng sâu răng sẽ dẫn đến răng sâu bị hủy hoại toàn bộ và tổn thương đi vào tủy răng, dẫn đến viêm tủy răng và gây đau nhức. Viêm tủy răng có thể tiến triển đến hoại tử, vi khuẩn xâm lấn xương ổ răng và gây áp xe răng. Nhiễm trùng răng sữa có thể ảnh hưởng đến quá trình mọc răng vĩnh viễn. Một số trường hợp nhiễm trùng răng sữa có gây ra nhiễm trùng huyết hoặc nhiễm trùng các vùng mặt.

Điều trị

Tuổi của trẻ lúc bị sâu răng có ý nghĩa quan trọng trong việc điều trị răng. Trẻ em nhỏ hơn 3 tuổi không có khả năng hợp tác với thủ thuật điều trị răng và thường đòi hỏi có các hỗ trợ như kìm giữ trẻ, gây tê hay gây mê trong lúc trám răng. Sau 4 tuổi, trẻ có khả năng đáp ứng với việc chữa răng và với thuốc gây tê tại chỗ.

Điều trị răng có sử dụng amangam bạc, vật liệu trám composite hay mão toàn diện có thể giúp giữ lại được các răng sâu. Nếu tổn thương lan đến tủy răng, cần lấy một phần tủy răng hay lấy toàn bộ tủy răng. Nếu phải nhổ răng sâu, khoảng trống sau nhổ răng cần được duy trì để ngăn không cho di chuyển các răng còn lại dẫn đến sai vị trí các răng vĩnh viễn về sau.

Tình trạng nhiễm trùng răng còn khu trú trong xương ổ có thể được xử lý bằng các biện pháp tại chỗ (nhổ răng, lấy toàn bộ tủy răng). Kháng sinh đường uống có chỉ định cho các trường hợp nhiễm trùng răng có viêm mô tế bào, sưng mặt hoặc trong thường hợp không thể gây tê răng vì có viêm. Penicillin là kháng sinh được chọn ngoại trừ trường hợp bệnh nhi có tiền căn dị ứng với thuốc này, khi đó có thể thay thế bằng clindamycin hay erythromycin. Các thuốc giảm đau uống như ibuprofen thường có hiệu quả kiểm soát tốt cơn đau. Nếu tình trạng nhiễm trùng lan rộng đe dọa sinh mạng trẻ cần dùng các kháng sinh đường tiêm.

Phòng ngừa

Biện pháp phòng chống sâu răng hiệu quả nhất là cho fluor tối ưu vào nước sử dụng với nồng độ 1ppm. Trẻ em sống ở vùng có nguồn nước thiếu fluor có nguy cơ cao bị sâu răng và cần được dùng bổ trợ chất fluor. Để tránh quá liều fluor, bác sĩ không kê đơn thuốc có fluor có số lượng quá 120mg. Biểu hiện cấp tính của quá liều fluor (cao hơn 5mg/kg) cần được xử trí khẩn cấp. Dùng các dạng fluor bôi ngoài (do bác sĩ hay bệnh nhi thực hiện) có ích lợi cho các bệnh nhi có nguy cơ bị sâu răng.

Vệ sinh răng miệng

Đánh răng hằng ngày, nhất là với kem đánh răng có fluor, sẽ giúp ngăn ngừa sâu răng. Đa số trẻ em dưới 8 tuổi không chịu đánh răng đầy đủ. Do vậy, các bậc cha mẹ có trách nhiệm về việc vệ sinh răng miệng của trẻ em, làm thay đổi thói quen của trẻ theo hướng tích cực.

Chế độ ăn uống

Giảm số lần ăn các chất có đường có hiệu quả phòng ngừa sâu răng. Vì vậy, không nên cho trẻ dùng các thức uống ngọt, hay dùng chất ngọt vào ban đêm; đối với trẻ có nguy cơ cao bị sâu răng cần tránh cho dùng các loại bánh snack giữa các bữa ăn.

Trám bít hố rãnh

Trám bít hố rãnh bằng resin được ghi nhận là có hiệu quả phòng ngừa sâu răng ở các răng cối sữa và răng cối vĩnh viễn. Trám bít hố rãnh có hiệu quả nhất khi đặt ngay sau khi các răng vừa mới mọc (trẻ 1-2 tuổi) và cho các trường hợp răng cối có khe sâu hay rãnh sâu.

ThS. BS. NGÔ LÊ THU THẢO (Khoa RHM - ĐHYD Tp.HCM, Báo Sức khoẻ Đời sống)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên