Nguyên nhân gây bệnh: Là sự không có các tế bào hạch thần kinh ở đám rối của lớp cơ ruột tại một đoạn ruột, thường là ở trực đại tràng Sigma, có thể tới đại tràng trái, toàn bộ đại tràng và cả ruột non.
Bệnh nhân bị bệnh này có thể bị thêm các dị tật phối hợp như Hội chứng Down mắc ở tỷ lệ 2-5%, dị tật tim mạch khoảng 1%, dị tật thần kinh 1%, 3 nhiễm sắc thể 18, dị tật đường tiết niệu sinh dục 3%, dị tật đường tiêu hóa như teo thực quản, teo đại tràng hội chứng nút phân su, dị tật không hậu môn... và có tính chất gia đình ở 3-6% các trường hợp bệnh.
Cách phát hiện bệnh: Tùy theo mức độ nặng nhẹ mà bệnh có biểu hiện ở các lứa tuổi khác nhau.
Trẻ sơ sinh:
- Chậm đại tiện phân su (sau đẻ trên 24 giờ mới đại tiện phân su), có tới 94% các trường hợp biểu hiện triệu chứng này.
- Tắc hoặc bán tắc ruột: Tới 60% các trường hợp.
Thường có biểu hiện lâm sàng sớm sau đẻ: Chướng bụng tăng dần, bụng thường chướng đều, da căng bóng; nôn ra sữa rồi dịch mật, dịch ruột; tiêu chảy do viêm ruột; quai ruột nổi, gõ vang; khi nghe bụng mà không thấy có biểu hiện của nhu động ruột thì phải nghi ngờ thủng ruột hoặc nhiễm khuẩn; thăm trực tràng bằng ngón tay út: thấy ống hậu môn mềm mại nhưng chặt và trực tràng rỗng.
- Một dấu hiệu điển hình khi thăm khám là tháo ào ạt hơi và phân khi rút ngón tay sau thăm trực tràng và bụng bớt chướng hơn. Triệu chứng này có khi đoạn ruột vô hạch ngắn. Còn nếu đoạn vô hạch dài thì phải dùng ống thông cao-su hoặc ống thông bằng chất dẻo đưa sâu vào trực tràng tới phần ruột giãn thì mới tháo hơi và phân ra được.
Nếu bệnh nhân da xanh, trong trạng thái kích thích hoặc ngủ lịm, thở nhanh, mạch nhanh 160 - 180 lần/phút, thân nhiệt không ổn định, nhiệt độ cao hoặc thấp phải nghi ngờ nhiễm khuẩn máu. Với một số trẻ sơ sinh, các triệu chứng của bệnh có thể bắt đầu từ tuần thứ 2, 3 sau đẻ. Nếu không được điều trị sẽ dẫn đến viêm ruột thủng đại tràng. Viêm ruột là nguyên nhân gây tử vong. Thường xảy ra ở thể vô hạch cao hoặc thể vô hạch thấp mà không được điều trị. Thủng đại tràng thường sau viêm ruột.
Trẻ bú mẹ (từ 2-24 tháng tuổi):
- Thể nhẹ: Khi bú mẹ, trẻ đại tiện bình thường, phân hơi lỏng; nhưng khi bắt đầu ăn sữa hộp, triệu chứng của bệnh xuất hiện, trẻ bị táo bón kéo dài, chướng bụng, ăn uống kém, chậm lên cân, da xanh, suy dinh dưỡng.
- Thể nặng: Viêm đại tràng do ứ đọng phân nặng. Tiêu chảy bất thường: phân lỏng thối khẳn hoặc phân nhớt có nhày máu. Có biểu hiện mất nước và rối loạn điện giải nặng. Thiếu máu.
Trẻ nhỏ và trẻ tuổi học đường (từ 3-15 tuổi):
Trẻ có tiền sử táo bón, thường xuyên phải dùng thuốc nhuận tràng hoặc thụt đại tràng bằng microlax hay nước muối sinh lý. Bụng chướng, quai ruột giãn, nổi, nắn bụng thấy khối phân rắn ở phía hố chậu trái. Trẻ gầy yếu, chân tay nhỏ, chậm phát triển thể lực, mất cảm giác muốn đại tiện.
Chẩn đoán xác định: Dựa vào khám và hỏi bệnh, chụp đại tràng có bơm thuốc cản quang, sinh thiết trực tràng, đo áp lực hậu môn trực tràng.
Tất cả những trường hợp trẻ được xác định mắc bệnh đều có chỉ định phẫu thuật. Thời điểm tùy thuộc vào lúc phát hiện và mức độ nặng nhẹ của bệnh, có hay chưa có biến chứng, tình trạng chung của bệnh nhi mà có chỉ định mổ sớm ngay sau khi có chẩn đoán hay chuẩn bị săn sóc bệnh nhân một thời gian rồi mới mổ. Xu hướng hiện nay là mổ chữa khi trẻ được khoảng 3 tháng tuổi.
Những năm trước đây, vì các bệnh nhân đến khám muộn, không được chăm sóc, điều trị tốt nên khi tới bệnh viện đã trong tình trạng gầy, thiếu máu, bụng chướng to do quai ruột già giãn quá to, có khi kèm theo viêm ruột nặng nên thường phải áp dụng phương pháp mổ 3 lần. Những năm gần đây, nhờ chẩn đoán sớm được bệnh và theo dõi điều trị tốt bằng thụt tháo phân hằng ngày nên có thể mổ một lần để điều trị hiệu quả.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận