![]() |
Dùng thuốc nhỏ mắt loại nào phải do bác sĩ khám và chỉ định |
Thuốc sát khuẩn và thuốc kháng sinh
Thimerosan rỏ mắt là thuốc sát khuẩn có thủy ngân hữu cơ, có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn ngay tức khắc. Bên cạnh thuốc sát khuẩn là các thuốc kháng sinh như kháng sinh tra, rỏ mắt chlorocid 0,4%, mỡ mắt tetracyclin, thuốc nước hoặc thuốc mỡ gentamycin. Các kháng sinh viên như tetracyclin, ampicillin, amoxycillin, gentamycin... Kháng sinh có tác dụng chống lại sự sinh sản của mầm bệnh như vi khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm bệnh.
Như vậy, thuốc sát khuẩn diệt ngay vi khuẩn còn thuốc kháng sinh chỉ diệt các thế hệ sau của vi khuẩn mà thôi.
Các kháng sinh rỏ mắt thường đắng. Trước bữa ăn 1 giờ ta nên tránh nhỏ chúng vào mắt. Bởi vì thuốc sẽ qua lệ đạo, xuống họng, gây đắng họng, làm bữa ăn mất ngon. Các thuốc kháng sinh tiêm mắt như lincomycin nhất là gentamycin thường hay gây phù hố mắt, phù hai mi, có thể phồng cả kết mạc lên, do tác dụng phụ của thuốc gây ra.
Thuốc chống viêm
Thuốc chống viêm nói chung còn gọi là thuốc chống viêm không đặc hiệu. Chúng có tác dụng chống các biểu hiện do quá trình viêm gây ra, dù là nguyên nhân gây viêm do vi khuẩn, nấm, siêu vi khuẩn, rối loạn tuần hoàn hay do nhiễm độc. Cụ thể là chúng làm giảm hiện tượng phù, sưng, nóng, đỏ, đau cho bộ phận viêm. Chất thuốc chống viêm hiện nay đang được dùng nhiều nhất là chất cortison tra, rỏ, tiêm, uống dưới các tên biệt dược khác nhau: hydrocortison, corticoid, prednisolon, polydexa, dexamethason, mỡ chlorocid H, levocid H...
Bên cạnh chất cortison là các thuốc chống viêm không có cortison. Những tên thuốc hay gặp thuộc loại này là viên indomethacin, vindicid, thuốc rỏ mắt indocollye...
Thuốc có cortison mang nhiều biệt dược khác nhau, tự bệnh nhân không phân biệt được. Vì thế khi sử dụng thuốc cortison phải thận trọng vì cortison làm chậm quá trình liền sẹo nên dễ gây loét, thủng mắt. Cortison còn làm các loại nấm bệnh và siêu vi khuẩn dễ phát triển, dễ nhân bội. Do đó bệnh nhân chỉ được dùng các thuốc tra, rỏ mắt, tiêm, uống... theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa mắt, tránh tự mua sử dụng.
Các thuốc làm co hoặc giãn đồng tử: không có tác dụng chống viêm
Thuốc pilocarpin 1% làm hạ nhãn áp trong bệnh glocom, mỗi lần rỏ mắt, tác dụng co đồng tử chỉ được 6 giờ. Người bệnh phải rỏ thuốc này ngày 3 lần với các bệnh glocom không cấp bách, sơ phát. Trong cơn glocom cấp, để cho chắc chắn có khi phải rỏ thuốc này một, hai giờ một lần.
Thuốc atropin 1%-4% tra làm giãn đồng tử, chống dính đồng tử, chống lấp tắc đồng tử trong bệnh viêm màng bồ đào mắt. Thuốc này sau 1 lần rỏ có thể làm giãn đồng tử đến 10-15 ngày. Người bệnh được rỏ thuốc vào mắt để soi, khám, điều trị. Khi dùng thuốc này tránh lau mặt làm dây thuốc sang mắt bên kia gây lóa mắt, đi lại, sinh hoạt khó khăn.
Thuốc atropin còn có tác dụng phụ là gây đỏ mắt tạm thời cho các cháu nhỏ. Gia đình nên biết điều này và đừng sợ. Biểu hiện đó không gây nguy hiểm, sẽ qua đi sau một vài giờ. Thuốc rỏ atropin cũng như thuốc tiêm atropin có thể gây khô cổ, ít nước bọt. Chúng ta cũng phải lưu ý atropin còn là thuốc độc, vì thế khi có lọ thuốc atropin trong tay phải hết sức thận trọng: tránh rỏ lầm sang mắt bên kia, tránh cho người khác rỏ vì chúng có gây cơn glocom cấp cho người bị glocom tiềm tàng.
Đặc biệt đừng để thuốc atropin lọt vào tay trẻ em. Các cháu nhỏ chỉ cần uống phải mươi giọt atropin 1% có thể xuất huyết thận, đường tiêu hóa, lỗ tai, não, nhiều khi không cứu chữa được dẫn đến tử vong.
Một loại thuốc nữa hay dùng trong điều trị bệnh đáy mắt là divascon tiêm ngay vào vùng mắt. Thuốc này làm giãn mạch, tăng cường tuần hoàn đáy mắt. Một đợt điều trị bệnh đáy mắt thường ta chỉ tiêm 7 đến 10 ngày, mỗi ngày một lần. Tiêm nhiều quá có thể gây xơ hóa hốc mắt, thậm chí có thể gây giãn liệt mạch máu dẫn đến xuất huyết đáy mắt.
Thuốc viên uống điều trị chứng cao nhãn áp trong bệnh glocom thì hay dùng fonurit còn có biệt dược là diuramit. Mỗi lần uống thuốc chỉ có tác dụng kéo dài được 8 giờ. Cần biết điều này để chia viên thuốc uống trong ngày. Ví dụ: phải uống 2 viên thì sáng 1 viên, tối 1 viên. Ngày uống 3 viên thì sáng 1 viên, trưa 1 viên và tối 1 viên. Thuốc còn có tác dụng phụ là làm cho môi, lưỡi tê tê, mặt buồn buồn như có vương tơ nhện. Thuốc cũng gây đi tiểu nhiều, có khi đi tiểu ra cặn bột oxalat. Các tác dụng khó chịu đó sẽ qua đi khi hết đợt dùng thuốc.
Các thuốc có tác dụng theo cơ chế bổ
Đó là các vitamin và chất khoáng. Vitamin như vitamin A, C, D, B1, B6, B12. PP. Vitamin A cần cho da và niêm mạc, giác mạc, đáy mắt. Vitamin D giúp chuyển hóa canxi, phosphor cần cho xương. Vitamin B1 giúp chuyển hóa chất bột, chất đường. Vitamin C giúp hô hấp tế bào, tăng cường chức năng chống viêm của tuyến thượng thận. Các khoáng bổ như iod, sắt, đồng, kẽm, canxi, mangan, selen... Tất nhiên chúng ta chỉ cần chúng ở mức vi lượng.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận