24/03/2011 08:00 GMT+7

Những câu hát trên sông nước

 NGUYỄN NGỌC TUYẾT (Cần Thơ)
 NGUYỄN NGỌC TUYẾT (Cần Thơ)

AT - Đất Nam bộ sông rạch chằng chịt, phương tiện di chuyển, chuyên chở thông dụng là ghe thuyền. Bởi thế mà trước đây, người miền Nam thường chân không bén đất, cứ bước ra khỏi nhà là xuống ghe, xuống thuyền.

hmqA0VXH.jpgPhóng to
Minh họa: Mặc Tuân

Lại nói, trên sông thường nổi cồn phù sa, không quen đường nước đụng vào chướng ngại ngầm ấy rất dễ chìm. Nhiều khúc bờ sông uốn lượn, bên dưới là gốc cây lởm chởm, nhiều con rạch quanh co, người đi ngược chiều khó thấy nhau, thường hay đụng chạm. Vì vậy ngay từ đầu, đã có luật lệ giao thông đường thủy đặt ra rất hợp lý và còn giữ đến ngày nay. Đó là các ghe thuyền cứ theo bên phải mà đi, đó là phía “bát” còn gọi là “hoát”, bởi trên thực tế, kêu là “hoát” nghe âm vang xa hơn. Còn bên trái gọi là “cạy”. Khi gặp bất trắc, ghe bị rướn lên cồn cát hay mắc cạn không đi đúng bên được thì phải hô “cạy” để ghe ngược chiều với mình ôm bên trái. Bao giờ quyền ưu tiên cũng dành cho ghe đi ngược nước và chở nặng.

Theo các tư liệu, người đặt ra lệ này ở miền Nam là Nguyễn Cư Trinh từ giữa thế kỷ 18. Vì vậy trên sông rạch ngày xưa, ở mỗi khúc sông, mỗi doi vịnh ghe xuồng qua lại thường nghe vang lên những tiếng “hoát , cạy” như một thông tin của các ghe thuyền cho nhau. Trong đêm tối, trong cái lặng tờ của sông nước, những âm vang ấy cũng làm ấm lòng, vững tâm cho người lao động lặn lội đường xa...

Hầu hết những người gắn mình vào sông nước miền Nam là khách thương hồ. Những ghe hàng buôn bán tạp hóa hay ghe chở mướn cho các mại bản. Bạn ghe chài rất cực khổ như câu hát quen thuộc:

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê/Chồng chèo thì vợ cũng chèo/Hai đàng đã nghèo lại đụng với nhau.

Đó là chưa kể đến những bất công áp bức của thời xưa từng ập xuống đầu bạn ghe chài. Nghe nói cậu Hai Miêng (con lãnh binh Tấn, tên Việt gian khét tiếng) hay ngao du với chiếc ghe hầu. Khi ghe của cậu muốn ghé vào đâu thì:

Ghe cau, ghe chuối, ghe dừa/Ba ghe dẹp lại để chừa cậu vô.

Vì vậy, nghiên cứu về ca dao ở ĐBSCL là nghiên cứu sinh hoạt trên sông nước, những sinh hoạt còn in dấu trong những câu hò, câu hát của miền này.

Điều đặc biệt lý thú là mỗi vùng đất đều có những câu hò câu hát đặc trưng với cách hát cách hò khác nhau. Ví dụ Bến Tre, nơi có nhiều giọng hò nhất như hò cấy, hò chèo ghe, hò lờ, hò huê tình... đều có thể ngân dài theo sông nước:

Sông Bến Tre nhiều hang cá ngác/Đường Kho Bạc cát nhỏ dễ đi/Gái Ba Tri nhiều đứa nhu mì/Lòng thương em bậu sá gì đường xa.

Đồng Tháp cũng có những câu hò chèo ghe đầy chất lượng nghệ thuật với cách hò luyến láy thật phong phú, có lẽ đặc biệt nhất trong toàn miền Nam. Nghe câu hò Đồng Tháp có thể cảm nhận được cái chơi vơi, ngoằn ngoèo của một vùng sông nước mênh mông:

Tháp Mười đồng ruộng bao la/Tây vô Cao Lãnh làm ma không đầu.

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh/Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân...

Và Cần Thơ, xứ sở của “gạo trắng nước trong” ấy cũng có những câu hò giai điệu giản đơn thôi nhưng thấm đẫm niềm tự hào về sự phong quang:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền/Anh có thương em thì cho bạc cho tiền/Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.

Những câu hò, câu hát trên sông.Những vang bóng của một thời chân chất, hồn nhiên với những bàn chân bám chặt vào bùn sình, khai hoang, mở đất. Ngày nay, ghe xuồng, thuyền lớn thuyền bé chạy máy ầm ầm, rẽ sóng trắng xóa mặt sông và những câu hát dường như đã lẫn khuất nơi nào! Sao mỗi lần đứng lặng ở một bến sông, ta lại bâng khuâng nhớ mãi câu hò thấm đậm tình người, tình đất trong một lời tạm biệt trên sông nước:

Nhền nhện sa xuống nước/Nhền nhện nổi lình bình/Tôi kiếu huynh, tôi kiếu đệ, để người tình tôi được thảnh thơi.

IgYD7vgm.jpgPhóng to

Áo Trắngsố 35(số 91 bộ mới) ra ngày 15/03/2011hiện đã có mặt tại các sạp báo.

Mời bạn đọc đón mua để thưởng thức được toàn bộ nội dung của ấn phẩm này.

 NGUYỄN NGỌC TUYẾT (Cần Thơ)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên