Phóng to |
Những ngôi nhà thuộc thế hệ đầu tiên trên đảo Thuyền Chài B - Ảnh do Bảo tàng Hải quân cung cấp |
Đó là bốn câu thơ của đại tá Nguyễn Kiều Kinh, trưởng phòng chính sách - Cục Chính trị quân chủng Hải quân, viết trong những ngày làm nhiệm vụ trên đảo Thuyền Chài, đầu tháng 9-1988. Ấy là những chuỗi ngày còn đầy trong ký ức ông...
“Trường” và “Sa”
Cuối tháng 8-1988, lần thứ hai trong năm thượng úy Nguyễn Kiều Kinh xung phong ra đảo Thuyền Chài làm nhiệm vụ. Anh làm khung trưởng chỉ huy đội lắp dựng một nhà sắt ba tầng cho một trung đội ở. Khi đó vợ anh đang mang thai hai tháng. Trước khi đi, người sĩ quan chỉ huy dặn vợ: nếu sinh con trai đặt tên là Trường, còn con gái là Sa.
Đó là chuyến đi ngay mùa mưa bão, sóng gió. Sau khi chuyển hết nguyên vật liệu lên đảo chìm thì dông gió bất ngờ ập tới, tàu HQ614 bị mắc cạn trên đảo. Nước trên tàu không đủ, chưa biết chính xác ngày nào có tàu ra tiếp viện. Anh em phải tận dụng hứng lại từng gáo nước tắm để trộn ximăng.
Chỉ trong 20 ngày công trình hoàn thành, quá sớm so với hai tháng theo kế hoạch. Lúc này, tàu cứu hộ CB-28 của hải quân Nga đã có mặt để hỗ trợ. Đợi khi thủy triều lên cao nhất, lợi dụng những đợt sóng to, tàu CB-28 kéo đuôi tàu HQ614 lùi ra phía biển. Cùng lúc đó công binh cho nổ mìn phá đá mồ côi, đá san hô cản đường phía đuôi tàu. Mất gần năm tiếng, tàu HQ614 đã được giải cứu thành công. Khi kéo được tàu ra biển, anh em công binh lại phải lo chống chìm cho tàu ở những chỗ thủng, nứt.
Phóng to |
Đoàn công tác Bộ tư lệnh Công binh trên căn nhà thuộc thế hệ đầu ở đảo Thuyền Chài tháng 5-1988 Ảnh do - Bảo tàng Hải quân cung cấp |
Lòng biển
6g sáng 25-12-1988, khi chỉ còn cách đất liền 92 hải lý, tàu HQ614 bị thủng bốn lỗ lớn nhỏ ở đáy. Anh em huy động tất cả các loại máy bơm để hút nước. Nhưng sức người không thể nhanh hơn biển. Vết thủng ở đáy tàu mỗi phút lại vỡ ra rộng hơn. Rồi nước dâng ngập hơn nửa khoang, tàu bắt đầu nghiêng về mạn phải. Thuyền trưởng tàu HQ614 phải đưa ra một quyết định khó khăn: báo cho tàu cứu hộ cắt cáp, hi sinh tàu HQ614.
"Có một nhà thơ đã gọi anh em công binh là “Những người kê cao Tổ quốc”. Lính công binh chúng tôi xưa đã góp phần kê cao thềm Tổ quốc bằng ý chí, trách nhiệm và tình yêu đất nước. Giờ, tôi thấy ý tưởng của chương trình “Góp đá xây Trường Sa” giản dị mà ý nghĩa. Góp đá, góp vật chất chỉ là một mặt giá trị, điều quan trọng nhất là đánh thức, khơi gợi tinh thần dân tộc, ý thức chủ quyền lãnh thổ và sự đoàn kết, sẻ chia trong toàn dân..." |
Khung trưởng Nguyễn Kiều Kinh và thuyền trưởng Ba Thành là hai người cuối cùng rời khỏi tàu. Thuyền trưởng HQ614 ngẩn ngơ đứng trong buồng lái, lặng người xúc động. Anh tìm cách về phòng kịp lấy khẩu súng ngắn và bình tĩnh quấn quốc kỳ lại, giắt vào người rồi nhảy xuống mặt biển lạnh cóng. Sóng đánh dạt anh em thành từng nhóm. “Nhiều lúc bơi ở gần đỉnh sóng, ngoái lại nhìn phía sau thấy anh em mình đang trồi sụp ở tận đáy sóng hun hút”, đại tá Nguyễn Kiều Kinh nhớ lại.
30 phút sau. Trực thăng của hải quân Nga bay ra hỗ trợ tàu cứu hộ CB-28 tìm kiếm. Trên trời, trực thăng bay rà sát mặt biển rất nhiều vòng tìm kiếm. Tàu cứu hộ CB-28 đảo đi đảo lại quanh khu vực anh em chiến sĩ bơi gần hai tiếng. Vớt được người nào bác sĩ phải cấp cứu, hô hấp nhân tạo và xử lý nước biển trong dạ dày ngay lúc đó. Tất cả đều tím tái và gần như lả đi vì lạnh, vì uống no nước biển.
Lúc lên tàu, khung trưởng Nguyễn Kiều Kinh giật thót mình: thiếu sáu chiến sĩ! Mọi người túa ra từng ngóc ngách trên tàu tìm. Một tiếng trôi nặng nề, căng thẳng. Vẫn không thấy. Kiều Kinh chạy lên tầng thượng của tàu tìm trong tuyệt vọng. “Tôi lặng người, chảy nước mắt khi thấy sáu anh em nằm gần như bất động quanh ống xả bọc thép. Có lẽ chịu lạnh lâu quá, anh em leo lên nằm cạnh ống xả cho ấm”, đại tá Nguyễn Kiều Kinh kể. Chiều tối tàu về đến Cam Ranh, kết thúc một hành trình quá nhiều sóng gió. Mỗi người chỉ còn lại độc nhất bộ quần áo lót. Sau 13 năm nhập ngũ, khung trưởng Nguyễn Kiều Kinh lại được cấp phát quân trang như lính mới!
oOo
Sau chuyến đi ấy, anh Nguyễn Kiều Kinh lại tiếp tục đi học ở Hà Đông. Vợ anh một nách hai con. Mẹ chồng phải lặn lội từ Tây Ninh ra Quảng Ninh đón đứa cháu nội thứ hai 10 tháng tuổi vào nuôi. Mãi đến năm 1992, kết thúc lớp học, anh và vợ mới vào Tây Ninh đón con về. Thằng bé lúc đó đã gần 4 tuổi. Nó khăng khăng không chịu gọi bố, mẹ. “Chào bố Kinh đi Trường. Đêm nào cô cũng kể về bố Kinh cho cháu nghe đấy”, nghe cô ruột nói, thằng bé cứ trân trân nhìn người đàn ông lạ lẫm trước mặt. Nó lạnh lùng gọi bố là “chú”. Vợ anh ôm mặt khóc. Người sĩ quan hải quân lặng đi, nuốt cục nghẹn ở cổ, lòng dâng lên một thứ cảm giác lạ lẫm, ngổn ngang lẫn chua xót. Ba ngày chơi ở Sài Gòn, thằng bé vẫn nhất quyết không gọi một tiếng “bố”. Mãi đến khi xe lửa đi tới khu vực Tháp Chàm (Ninh Thuận), khát nước quá thằng bé mới buột miệng gọi “bố”. “Đến Đà Nẵng, nhìn thấy biển trải dài, tôi nghĩ tuy có những cơn giận dữ nhưng biển vốn dĩ hiền hòa và bao dung như chính lòng cha mẹ vậy!”. Người lính công binh còn rưng lòng khi nói lên cảm xúc trước biển...
_______________
Câu chuyện với những người lính công binh lại dẫn dắt tới một giai đoạn đặc biệt: tái xây dựng Trường Sa ngay sau ngày thống nhất đất nước...
Kỳ tới: Trường Sa ngày gió, cát...
* Tin bài liên quan:
Kỳ 1: Quân lệnh đêm 30 tếtKỳ 2: Thử thách đại dươngKỳ 3: Làng xây đảoKỳ 4: Sống chết cùng Tiên NữKỳ 5: Niềm tự hào Tốc Tan Kỳ 6:Chinh phục đại dương
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận