Từ tứ giác Long Xuyên, thành kính dâng nén hương lòng nhân ngày giỗ đầu của cố Thủ tướng VÕ VĂN KIỆT
![]() |
Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt (đứng giữa, khoát tay) trong một lần thị sát ở vùng tứ giác Long Xuyên. Nơi ông đứng là nơi sau này xẻ tuyến kênh T5, người dân gọi là “kênh Ông Kiệt” - Ảnh tư liệu Tuổi Trẻ |
Hôm được tin ông lặng lẽ vĩnh biệt chúng ta, những người chân thành yêu mến ông bỗng dưng như vỡ òa, choáng váng và đất như không dưới chân mình. Rồi những ngày quốc tang và lễ tiễn biệt ông về nơi vĩnh cửu. Nghi thức trọng thể đối với một nhân vật lãnh đạo quốc gia qua đời cũng như tang lễ của người dân thường đều giống nhau ở chỗ: người sống khóc và kể công đức người chết. Một dấu ấn nhân bản khép lại cuộc đời của một con người.
Chết là hết! Cái còn lại là của cải vật chất - là tài sản và tình cảm, trí tuệ, nhân cách sống lúc sinh thời - cũng là một thứ tài sản, là “lao động quá khứ” để lại cho đời tận hưởng, “khấu hao” dần - như cách ông hay nói vui sau khi không còn là cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng: “Cuộc đời tao đã “khấu hao” hết rồi, bây giờ là lãi”. Nhưng thường thì của cải nào để lại rồi cũng hết, nếu của không biến thành vốn và người chết cũng dần bị quên đi. Thậm chí có những công trình hay đường sá được đặt tên mà kẻ hậu sinh nhiều khi còn lạ hoắc. Đó cũng là lẽ thường. Song, đối với ông, một năm đã qua rồi mà đời vẫn cảm thấy ông hiển hiện.
Tôi đến viếng mộ ông rất muộn. Hoa tươi vẫn luôn nở đầy bình, hoa cũ thay ra chưa kịp héo. Một chiếc nón lá máng trên cành tre cắm bên mộ như nói lên điều gì? Anh bạn ở TP.HCM nói với tôi: “Người ta đem lễ vật đến cúng bên mộ ông có cả tô canh chua cá lóc ở ĐBSCL và dĩa trám bùi của núi rừng Việt Bắc”. Rồi anh nhận xét: “Dân mình đang khát mẫu người lãnh đạo như ông!”. Ông bình thường, dân dã như tô canh, quả trám mà dân cần có để ăn, và ai đã quen ăn mà lại không thèm không nhớ?
Một anh bạn khác của tôi là nhà khoa học có tên tuổi, thường mail cho tôi, chia sẻ: “Những khi cảm thấy bất lực, tôi lại gửi lòng mình tâm sự theo hương khói với người mà tôi ngưỡng mộ, kính trọng, đang ở cõi vĩnh hằng... Vì ông là người thông tuệ, biết lắng nghe và thấu hiểu để tìm ra giải pháp phù trợ cho...”. Anh Út Vũ, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, mới đây gặp tôi anh nói: “Đám tang ông Sáu tao không có dự, tao làm giỗ ông tại nhà”.
Hôm được tin ở Quảng Ngãi làm lễ đặt tên con đường to và dài vào Khu công nghiệp Dung Quất, có Thủ tướng đến dự, lòng ai cũng hân hoan; rồi có nhiều ý kiến đề xuất tên ông đặt cho công trình này con đường nọ, như ở An Giang mong sớm có ngày tỉnh chính thức làm lễ đặt tên cho con kênh T5 thoát lũ ra biển Tây mà dân đã gọi là “kênh Ông Kiệt” khi vừa hoàn thành. Thời sự nhất là những vấn đề bức xúc của cuộc sống thường nhật đặt ra hoặc những vấn đề có tính “nhạy cảm”, nóng bỏng, xôn xao dư luận mà trong các cuộc hội thảo, tọa đàm hay trong lúc trà dư tửu hậu người ta hay nói “ý ông Kiệt” là thế này thế nọ, như ông là “chìa khóa của mật mã” vậy.
Sau lễ cầu siêu 100 ngày cho ông tại chùa Yên Tử, tổ đình của thiền phái Trúc Lâm, Phật giáo VN đặt di ảnh của ông thờ bên phía trái Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông nơi chánh điện. Phải chăng tấm lòng thương dân của hai bậc nguyên thủ quốc gia như đấng từ bi, nên cách nhau tròn 700 năm mà vẫn có duyên hạnh ngộ (1308-2008)!
Nhớ buổi sáng năm trước, lúc 9g ngày 11-6, nhằm mồng 8 tháng năm - Mậu Tý, là thời điểm “nước quay”, báo hiệu mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu. Tôi vừa bước xuống xuồng để sang sông Hậu như thường khi đi thăm ao cá thì được điện thoại của một vị lão thành cách mạng ở TP.HCM báo tin: “Ông Sáu vừa mới ra đi”.
Mấy ngày sau anh Tô Văn Trường, viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi Nam bộ, điện nói với tôi là: mấy ngày trước ông còn điện cho anh, nói là ông bị cảm nhẹ, dặn anh ở Đức chờ vài ngày ông sang sẽ cùng đi Hà Lan nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm về lo chống nước biển dâng, do khí hậu biến đổi - tan băng, mà theo dự báo VN sẽ bị ảnh hưởng rất nặng. 85 tuổi mà vẫn ở tư thế tiến công. Ông chết đột ngột vào thời điểm ấy như một người lính đang trên đường chiến đấu - một anh hùng liệt sĩ. Bây giờ mỗi khi sang sông, gặp lúc triều cường là tôi nhớ ông da diết! Mà hình như triều cường ở biển Đông cũng ngày một cao hơn trước, và TP.HCM cũng bị ngập nhiều hơn trước!
Sau động đất là dư chấn. Sau cái chết là dư âm. Sau đám tang của vị “Thủ tướng của nhân dân” là sự sống. Bởi ông sống như người dân và chết như người lính. Ông tự đặt bí danh thường dùng là Sáu Dân và đặt tên con là Hiếu Dân. Rõ ràng lý tưởng đời ông từ thuở thiếu niên cách mạng là vì dân. Ông đã hòa quyện vào chiều sâu của cuộc sống dân dã và lộng bóng hiên ngang của “người lính già” canh chừng tai họa cho dân. Ông là vốn quý của đời. Không chết! Như bốn câu kết bài thơ tôi tặng ông 11 năm trước:
Vẫn là thủ tướng của nhân dânVẫn là anh Sáu mọi gia đìnhLồng lộng bóng soi miền sông nướcĐời nặng ân tình đất nặng chân.
Những con đường nhựa thẳng tắp chạy dọc các tuyến kênh xuyên ngang vùng tứ giác Long Xuyên. Hai bên đường là khu dân cư nhà cửa đông đúc, những dãy phố chợ sung túc... Hai mươi năm trước, những nơi này vẫn còn là chốn hoang hóa bạt ngàn cỏ dại, đất nhiễm phèn, nhiễm mặn... Tất cả là nhờ sự nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược và tấm lòng vì dân của ông Sáu Dân - Võ Văn Kiệt. Từ những dòng kênh đem nước ngọt về Giờ đây xuôi dòng Vĩnh Tế, rồi xuôi những dòng kênh T4, T5, T6... hai bên bát ngát đồng lúa xanh mơn mởn. Bà con cho biết những vụ mùa gần đây năng suất đều từ 6 tấn/ha. “Xưa đồng không mông quạnh, toàn là cỏ năn. Tất cả đều nhờ ông thủ tướng mở kênh đấy” - người dân nói. Sau khi tham khảo các công trình nghiên cứu và khảo sát thực tế, năm 1997 thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định cho làm công trình thoát lũ ra biển Tây. Công trình bao gồm hệ thống các kinh Vĩnh Tế, T4, T5, T6 cùng hệ thống ngăn xả lũ với hai đập điều chỉnh lũ là Tha La, Trà Sư và hệ thống cống ngăn mặn, giữ ngọt ven biển. Toàn bộ hệ thống hoàn chỉnh vào cuối năm 1999 đã dần dần làm ngọt hóa vùng đất ngủ yên bao đời này. Đất dần cho những đồng lúa trĩu bông. “Lúc đầu, rất nhiều ý kiến phản đối. Tôi nghĩ công trình thoát lũ ra biển Tây người như ông Sáu Dân mới dám quyết được vào thời điểm đó” - ông Nguyễn Minh Nhị nói. Vùng Đồng Tháp Mười (thuộc Đồng Tháp và Long An) giờ đây cũng vậy. Vùng đất hoang từng được mệnh danh là rốn phèn, rốn lũ trước kia nay trở thành vựa lúa, vùng nuôi trồng thủy sản, rồi những khu dân cư lần lượt mọc lên. Những địa danh Tràm Chim, Sa Rài, Mỹ An, Trường Xuân (Đồng Tháp), Tân Hưng, Tân Thạnh (Long An) đang trên đà đô thị hóa giữa vùng đất hoang sơ nghèo khó thuở nào... Theo nhiều nhà khoa học, hai công trình thoát lũ ra biển Tây và việc thi công tuyến kênh Hồng Ngự của thủ tướng Võ Văn Kiệt đã góp phần đánh thức tiềm năng hai vùng đất hoang là tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Nhờ đó An Giang có thêm 100.000ha đất canh tác, góp phần nâng sản lượng lúa thêm 1 triệu tấn. Kiên Giang, Đồng Tháp cũng vậy. Nhờ đó ba tỉnh này có sản lượng lúa 9 triệu tấn, chiếm hơn 50% sản lượng của vựa lúa ĐBSCL và góp phần đưa VN nhanh chóng trở thành nước xuất khẩu gạo từ một quốc gia còn nghèo đói, thiếu lương thực sau chiến tranh. Đến khu dân cư vượt lũ Trong ký ức nhiều người, vẫn còn đó hình ảnh một ông cán bộ tóc bạc trắng thường về vùng lũ khảo sát, đến thăm hỏi từng hộ. Ông Dương Văn Đâu - ấp Vĩnh Thuận, xã Lạc Quới, Tri Tôn, An Giang - bảo rằng lúc ấy không ai nghĩ ông là thủ tướng, bởi ông quá đỗi bình dị, gần gũi. Dòng họ ông Đâu bao đời cứ nối tiếp cảnh nghèo khó, bởi đất khai phá bị nhiễm phèn nặng một năm chỉ làm một vụ lúa mùa thất bát. Sau khi có các tuyến kênh đưa nước ngọt về, ông cải tạo đất chuyển qua trồng lúa cao sản. Cuộc sống từng ngày khá lên. Các xã vùng sâu trong vùng tứ giác Long Xuyên đều đã có trường học, trạm y tế, bưu điện, điện nước..., nhiều xã có cả trường THPT. Bao con đường đất nhỏ lầy lội ngày nào giờ đây là những tuyến lộ thênh thang... Ông Bảy Nhị kể mỗi lần thủ tướng về An Giang ông thường tháp tùng theo. Ngồi trên canô chạy khắp biển nước bao la, nhìn sang hai bên thấy nhà dân cất lêu đêu trên quãng đồng ngập nước. Thấy nhà trên cọc chưa thể bảo đảm an toàn, thủ tướng cho rằng nếu dân được cất trên nền đất cao ráo bằng phẳng thì chắc chắn hơn. Ông cho An Giang, Đồng Tháp mỗi tỉnh làm một tuyến dân cư để thí điểm. “Chương trình cụm tuyến dân cư vượt lũ của Chính phủ đầu tư cho các tỉnh ĐBSCL xuất phát từ đó” - ông Bảy Nhị xúc động. Người dân xóm Cây Mít, Nhơn Hưng, Tịnh Biên (An Giang) vẫn nhớ mãi ngày mình được lên ở trên tuyến dân cư đầu tiên ấy. Và họ gọi nơi ở mới là “khu dân cư thủ tướng”. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận