05/03/2006 17:44 GMT+7

Dự thảo Luật chứng khoán: Vẫn còn nhiều "sạn"

Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn
Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn

Tiến sĩ Vương Quân Hoàng - nghiên cứu viên cấp cao của Trung tâm Emile Bernheim, Đại học Tổng hợp Bruxelles, Bỉ - cho rằng nguyên lý để giải quyết tốt nhất những vấn đề còn gây tranh cãi xung quanh Dự thảo Luật Chứng khoán là tôn trọng “Luật của luật”.

WFtupsyu.jpgPhóng to
Giao dịch chứng khoán tại VN
Tiến sĩ Vương Quân Hoàng - nghiên cứu viên cấp cao của Trung tâm Emile Bernheim, Đại học Tổng hợp Bruxelles, Bỉ - cho rằng nguyên lý để giải quyết tốt nhất những vấn đề còn gây tranh cãi xung quanh Dự thảo Luật Chứng khoán là tôn trọng “Luật của luật”.

Ông Hoàng hiện công tác tại Công ty Tư vấn kinh tế-tài chính và Công nghệ Emiscom (Hà Nội).

* Đã làm việc trong lĩnh vực tài chính 13 năm, theo ông, khung pháp lý có ý nghĩa thế nào với một thị trường chứng khoán (TTCK) như TTCK Việt Nam?

- Ông Vương Quân Hoàng: Hiển nhiên là rất quan trọng. Tuy nhiên, để xét ảnh hưởng thực tế của khung pháp lý tới thị trường chứng khoán thì rõ ràng không thể chỉ trông cậy vào một luật.

Ta biết rằng luật luôn đi sau thị trường vì hiếm khi con người, dù là người thông thái nhất, có thể dự báo được mọi tiến bộ và thay đổi của xã hội, kinh tế. Ví dụ đơn giản, khi nghiệp vụ kinh tế chưa phát sinh thì điều khoản của luật sao có thể đã ra đời để điều chỉnh chủ thể, cũng như chế tài các vi phạm được.

* Để Dự thảo Luật Chứng khoán trở thành một bộ luật tốt cho TTCK phải có những tiêu chí nào?

- Châm ngôn của Aurelius Augustinus ( St. Augustine, 354-430 CN) là “lex iniusta non est lex” (Luật không công bằng không phải là luật). Ở khía cạnh làm luật, người ta hay dựa vào các tiêu chí sau để xác định một luật có được làm tốt hay không: minh bạch, công bằng, quy tắc chịu trách nhiệm, có thể triển khai, có thể chế tài, có thể sửa đổi, cải tiến.

Bản chất quan trọng hơn hình thức. Dĩ nhiên đây chỉ là một tập các tiêu chí vẫn hay được gọi là Luật của luật (rules of law) mà các trường phái khác nhau có thể điều chỉnh. Tuy vậy, có điều không thể phủ nhận là “Luật của luật” đang thiếu ở Việt Nam.

Ngoài ra, đối với bản chất luật thì tính chuẩn tắc được đề cao hơn tính thực chứng trong quá trình ra luật, nên bóng dáng thực chứng không rõ nét lắm.

Do đó, dù tôn trọng chuẩn tắc, quá trình làm luật phải tập hợp được nhiều nghiên cứu thực chứng từ cộng đồng kinh doanh và học thuật để làm giàu lý lẽ và tăng độ chặt chẽ.

Tại sao Hiệp ước Tín dụng quốc tế (Basel 2) lại đề xuất tỷ lệ an toàn vốn là 8% mà không phải 3%? Đó là vì có bằng chứng thực nghiệm nói rằng 3% là không đủ.

Trên toàn cầu, hàng chục ngàn nhà khoa học sản xuất ra hàng ngàn công trình thực chứng mỗi năm để cung cấp dữ kiện cho công việc, trong đó có làm luật. Chúng ta đã có được bao nhiêu nghiên cứu thực chứng như thế, ngay tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, cho chính TTCK của Việt Nam?

* Ông còn băn khoăn gì với dự thảo luật hiện nay không?

- Xem bản Dự thảo Luật Chứng khoán, mới nói về định nghĩa thôi, tôi thấy vẫn còn sạn. Nếu rà soát kỹ hơn, không phải để đào bới câu chữ thì vẫn còn một số hạt sạn khác. Chắc chắn là phải tập trung để chỉnh sửa, hơn nữa thời gian vẫn còn đủ để chủ động.

Tuy nhiên, tôi hơi băn khoăn là quá trình soạn thảo luật chưa tập hợp được ý kiến rộng rãi của công chúng nói chung và giới chuyên môn, kể cả học thuật, nói riêng.

* Ông có thể nêu vài “hạt sạn”?

- Ví dụ, ở điều 7 khi định nghĩa thuật ngữ, ta xét điểm 5 (chứng quyền) và điểm 8 (quyền chọn) thì thật khó phân biệt đứng trên góc độ nội dung, mà chỉ dễ phân biệt trên hình thức tương ứng là chứng khoán và hợp đồng.

Thực ra, hợp đồng có giá, trao đổi được cũng là chứng khoán. Cả hai đều trao quyền mua trong khoảng thời gian nhất định, ở mức giá xác định.

Điểm quan trọng là với chứng quyền khi được thực hiện, số lượng chứng khoán lưu thông tăng lên, còn quyền chọn thì không. Đáng lẽ đã là luật thì định nghĩa này cần rất rõ, đọc lên hiểu ngay, chứ không lờ mờ hay lằng nhằng khó hiểu.

* Có người cho rằng, thị trường chứng khoán thứ cấp còn vắng bóng trong dự luật?

- Đúng vậy. Lâu nay báo chí có vẻ nhấn mạnh quá nhiều chức năng huy động vốn của TTCK. Tuy nhiên, chức năng quan trọng nhất và là lý do giải thích tại sao tính xã hội hóa của TTCK rất cao chính là chức năng thanh khoản và hạ chi phí giao dịch.

Nó có được làm tốt thì mới hy vọng có thị trường sơ cấp (tức là phát hành lần đầu và huy động vốn) phát triển. Tắc ở giao dịch thứ cấp thì thị trường sơ cấp không thể mạnh. Tôi chưa thấy chỗ nào trong luật nói đến tiêu chí cực kỳ quan trọng này.

* Theo ông, Luật Chứng khoán cần quy định như thế nào để bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ ở Việt Nam trong tình hình giao dịch nội gián còn phổ biến?

- Thực sự không có số liệu nào về giao dịch nội gián tại Việt Nam. Tuy nhiên, bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ luôn là mối quan tâm của các TTCK hiện đại, do tính xã hội hóa rất cao của thị trường này.

Theo tôi, thường việc bảo vệ quyền lợi của những nhà đầu tư nhỏ được quy định tập trung nhất trong các quy tắc về “Quy chế xử lý xung đột lợi ích doanh nghiệp”, ngày nay đã phát triển thành một mảng học thuật rất chuyên sâu. Có lẽ luật phải đề cập điều này.

Ngoài ra, khi vận hành, ta nên học tập châu Âu. Các đại công ty chịu sức ép phải mời các nhân vật giàu kiến thức, được xem là trung lập, và thường là có tên tuổi vào hội đồng quản trị để đại diện cho các cổ đông nhỏ. Họ trở thành đối trọng với cổ đông lớn, mà sức nặng thường là do uy tín và sự trung thực mang lại.

* Ông nhận định gì về tiến độ làm luật với Dự thảo Luật Chứng khoán?

- Công bằng mà nói, việc đệ trình để thông qua dự luật trong năm nay là tiến độ đáng ghi nhận. Thế nhưng, nếu phải chọn giữa thời gian nhanh và một luật tốt, cá nhân tôi xin chọn luật tốt, chấp nhận hy sinh thời gian.

Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên