Hồi nhỏ, tôi thường mơ ước mình có thể đi trên những mái nhà. Không để làm gì cả, không ăn trộm, không dòm ngó. Chỉ đi vậy thôi.
Thần tượng lúc đó của tôi là Sở Lưu Hương. Quá lâu rồi, cũng không còn nhớ là vì mê đi trên mái nhà nên mê anh chàng này, hay ngược lại nữa. Chỉ biết cứ nghĩ đến cảnh có thể tiêu dao như hắn, ngồi uống rượu thưởng trăng trên một mái ngói nào đó thì tôi đã thấy rần rần cả người rồi. Tôi ăn trộm cây quạt giấy của bà nội, lấy bút lông vẽ ngoằn ngoèo lên đó, nhìn cũng thấy giống chữ Tàu; rồi suốt ngày tập búng quạt tanh tách như Lưu Hương Đại Soái.
Mỗi ngày chủ nhật, ba lùa tôi đi nhà thờ, bắt tôi ngồi ở ghế đầu còn ông ngồi ngay sau lưng. Chỉ cần tôi hơi nghiêng ngó, lập tức sẽ có một bàn tay xuất hiện từ phía sau thò lên túm lấy cổ tôi và chỉnh cho ngay lại. Tôi rất ghét đi lễ. Công bằng mà nói, đến bây giờ cũng vậy tôi yêu Chúa nhưng ghét đi lễ. Những người ngoan đạo đọc đến đây cứ việc cười khẩy và chửi tôi bị ma quỉ bắt mất hồn đi, nhưng tôi thấy thật tẻ nhạt. Mọi thứ chỉ mãi như thế, xoay vòng hết năm này đến năm khác. Hồi nhỏ tôi nghe bài phúc âm đó. Đúng một năm sau tôi nghe lại. Đúng một năm sau nữa lại nghe lại.
Lúc đầu nghĩ ôi chao, mới đó đã một năm rồi. Sau dần đâm ra chán ghét. Trên đời này có nhiều loại người, có loại người nghe đi nghe lại thì ngộ ra chân lý, còn loại khác - như tôi chẳng hạn - thì hết hi vọng rồi, càng nghe càng chán, càng thấy cuộc đời thật mệt mỏi, niềm tin cũng mỏi mệt làm sao. Tôi chỉ thích nhà thờ những ngày không có lễ. Không khí lúc đó dễ chịu hơn bao giờ hết. Bầy chim sẻ lượn lờ trên mái vòm nhà thờ. Cung thánh vắng tanh, hoa trên bàn thờ tỏa hương lặng lẽ. Những bệ quì gỗ bóng đến nỗi có thể soi gương được. Người ta mài đầu gối hòng quên đi những tội lỗi mình gây ra chăng?
Những suy nghĩ lếu láo bạn vừa đọc được ở trên là sau này, khi tôi có thể gọi tên và miêu tả được xúc cảm của mình. Còn lúc đó, tôi vẫn là một thằng nhóc mười hai tuổi mỗi ngày chủ nhật bị ba "dẫn độ” đi nhà thờ, và mỗi lần tan lễ về phải tóm tắt cho ông nghe hôm nay cha xứ giảng điều gì. Đó là chiêu để ba bắt tôi tập trung vào thánh lễ. Kinh dị làm sao. Hỏi hôm ấy cha xứ mặc áo màu gì có khi tôi còn không nhớ nổi, nói gì bài giảng miên man dằng dặc kia.
Là vì lúc ấy đầu óc tôi mải để ý mấy chú giúp lễ. Phải, mấy chú giúp lễ! Chính xác hơn là bộ quần áo các chú đang mặc. Áo chùng trắng, thắt lưng trắng... Y chang lễ bộ của Sở Lưu Hương! Từ khi phát hiện điều đó, tôi đâm ra tơ tưởng ngày đêm, hình dung mình xúng xính trong bộ áo quần giúp lễ ấy, búng quạt tanh tách và đi như bay trên những mái nhà. Đến một ngày không thể nào chịu nổi, tôi mở miệng hỏi trổng trổng ba, ra vẻ ta đây cực kỳ không quan tâm nhưng tim muốn nhảy ra ngoài: "Chứ làm sao có thể trở thành chú giúp lễ được?". "Con muốn đi giúp lễ?" - ba trợn tròn mắt. Tôi khe khẽ gật đầu, không biết mình làm thế là đúng hay sai. Chưa kịp thấy cái gật đầu đó, ba đã nắm cổ tôi lôi xềnh xệch vào gặp cha xứ.
Và tôi đã trở thành một chú giúp lễ như thế.
Hóa ra làm giúp lễ không thần tiên như tôi tưởng. Mặc xong bộ quần áo mơ ước vào, tôi phát hiện trăm ngàn lần mình cũng không được bay nhảy như trong phim, trái lại phải đi đứng rụt rè, khép nép trên cung thánh, ở dưới hàng ngàn con mắt giáo dân nhìn vào như thể chỉ chờ tôi vấp té một phát sẽ đồng loạt rú lên cười hả hê thích thú. Sau này lớn tôi vẫn không hiểu tại sao lúc ấy mình nhìn đời thù địch đến thế. Tôi luôn nghĩ mọi người sẵn sàng "thịt" tôi, chỉ cần tôi sơ hở một tẹo thôi. Bọn bạn cùng giúp lễ càng làm tôi chán nản. Tụi nó vừa ở dơ vừa cục cằn, chỉ chực để xông vào ục nhau vì ba thứ chuyện cỏn con: giành áo trắng hơn, thắt lưng đẹp hơn, đứa nào được lắc chuông, đứa nào được cầm bát trầm hương.
Thú vui duy nhất của tôi là kín đáo quan sát ông Từ. Không biết ông tên Từ hay người ta gọi là ông Từ vì ông ấy coi nhà thờ, lo việc đèn nến. Ông có vẻ mặt khắc khổ, đầu hói bóng, luôn phân xử những trận ục nhau của tụi giúp lễ bằng cách nắm cổ mỗi thằng quăng đi một hướng rồi lầm bầm: "Tôi méc cha xứ thì các cậu tiêu cả lũ”, nhưng chẳng bao giờ ông làm vậy. Nói chung ông tốt tính, thậm chí có thể coi là đáng mến, chỉ phải việc ăn mặc cực kỳ diêm dúa.
Ngày nào cha xứ mặc áo lễ màu gì thì ông mặc sơ mi màu đó. Tôi nhớ rất rõ những áo sơ mi của ông vì chúng được may bằng thứ vải bóng mà tôi cực ghét, xanh đỏ tím vàng không thiếu màu gì. Ông hay đưa tay lên miệng suỵt suỵt vẻ cực kỳ nghiêm trọng mỗi khi mấy đứa giúp lễ bọn tôi cười giỡn quá lố, tỉ mẩn đi thay từng mẩu nến ở khắp bàn thờ, đốt trầm, viết lời đáp ca và hàng trăm công việc không tên ở nhà thờ. Nghe nói vợ ông Từ chết từ lâu, anh con trai đã sang định cư ở Canada hằng tháng gửi tiền về nên cuộc sống của ông khá đầy đủ và ổn thỏa, chỉ chuyên tâm dành thời gian phụng sự Chúa.
Tôi rất thích đứng nhìn ông Từ viết lời đáp ca. Ông viết bằng phấn trên bảng đen, chữ nghiêng nghiêng nhìn rất bay bướm. Nhìn ông lúc đó rất khổ sở, tay run gò từng nét, trán nhăn lại, mồ hôi rỏ lộp độp, làm như chỉ cần viết lệch một chữ là mãi mãi không thể nào làm lại được. Thưởng thức nỗi khổ sở của người ta quả là một điều sung sướng ít gặp trên đời. Viết xong, ông hể hả nhìn tấm bảng rồi quay sang nhìn tôi, nháy nháy mắt "Được không?". "Nhìn cũng ổn" - tôi ậm ừ. "Ổn cái đầu mày á!".
Lúc đó tôi không hiểu tại sao mình bị mắng. Sau này nhìn lại mới thấy tuổi thơ mình có rất ít những lần tỏ ra phấn khích. Mọi sự với tôi chưa bao giờ rất tuyệt, quá tuyệt, hay ghê, đẹp quá. Tôi dùng từ "ổn" nghĩa là khen, khen rất chừng mực xen lẫn một tí kiêu ngạo. Thật chẳng hiểu thằng tôi hồi đó mắc chứng gì. Nghĩ lại, chính tôi cũng muốn ký đầu mình hồi xưa một cái.
Những buổi chiều phải phụ lễ, tôi đến nhà thờ thật sớm, trèo lên gác gỗ có những cánh cửa sổ bé tí bằng chuồng cu - nơi ca đoàn hay ngồi hát lễ. Từ đây nhìn ra rất đẹp. Đôi ba lần tôi giở nắp đàn piano cũ mèm, rón rén chạm tay lên những phím đàn ngả màu, tự giật bắn mình khi những âm thanh trầm khốc đột ngột vang lên. Bầy sẻ trên mái vòm nhà thờ hoảng hồn bay táo tác. Tôi nhận ra bầy sẻ này bị câm. Chưa bao giờ tôi nghe tiếng chúng chíp chiu. Chỉ có tiếng vỗ cánh loạt soạt trong khoảng không u trầm, trang nghiêm của mái vòm nhà thờ gỗ.
Mùa hè năm đó có hai xơ về giúp giáo xứ chúng tôi, một xơ già và một xơ còn rất trẻ, dường như chỉ mới đôi mươi. Xơ trẻ tên Trúc Anh này làm thanh niên trong toàn giáo xứ hồ như trở nên ngơ ngẩn. Xơ rất đẹp, đẹp không thể tả được.
Xơ là nữ tu thuộc dòng gì đó tôi quên rồi, dòng tu mặc váy áo trắng, khăn trùm trắng. Xơ luôn đi xăngđan bít mũi màu nâu, cổ đeo một chuỗi tràng hạt gỗ rất dài có thánh giá chạm khắc tinh xảo. Đôi mắt với cái nhìn lạnh nhạt nhưng bén nhạy nấp sau cặp kính gọng mảnh, sống mũi cao cực kỳ thanh tú và đôi môi nhỏ lúc nào cũng đỏ mọng như vừa thoa một ít nắng mai. Nhìn xơ đi trong nhà thờ, người ta không thể tránh nghĩ về một cô tiểu thư đài các, hơi kiêu ngạo dù họ đang nhìn một nữ tu. Tôi cho đó là một thứ cốt cách vượt khỏi những chức phận người ta đã được định sẵn trong đời, lồ lộ ra không thể nào che giấu được, hoặc người ta không chủ tâm che giấu.
Cây đàn piano sau bao nhiêu mùa im đến lúc ấy mới được trở về là mình - ngân lên những nốt nhạc vui mừng run rẩy dưới đôi bàn tay của xơ Trúc Anh. Trong giáo xứ không có ai chơi tốt đàn này dù nó là linh hồn của ca đoàn. Thi thoảng có vài tu sĩ ghé qua giúp giáo xứ ít lâu, những lúc ấy cây đàn mới có dịp lên tiếng rồi lại im bặt mỗi khi vị tu sĩ ấy rời đi. Trong ca đoàn có vài gã tập tành vớ vẩn đâu đó rồi cũng chạm vào cây đàn. Nhưng cái thứ âm thanh như bật bông ấy khiến trong tôi dấy lên một niềm căm ghét vô cùng tận. Chơi tồi một thứ nhạc cụ cũng giống như xúc phạm nó vậy.
Một buổi chiều tôi đang ngồi bên cửa sổ căn gác nhỏ trong nhà thờ, đột nhiên có tiếng chân người. Có lẽ ai đó lên lấy thứ gì bỏ quên. Không muốn giáp mặt để phải giải thích lôi thôi, tôi trèo phắt ra khỏi cửa sổ. Thoắt một cái, tôi thấy mình ngồi trên mái ngói nhà thờ và mắt choáng ngợp bởi khoảng trời xanh trước mặt. Tôi không nghĩ Sở Lưu Hương phải khổ sở như thế mỗi khi ngồi trên mái nhà ngắm trăng đâu. Tôi quyết định trèo vào trở lại.
Nhưng lúc đó tiếng nhạc vang lên. Adagio in C minor.
Bản nhạc đó sau này ám ảnh tôi rất lâu. Mỗi khi nghe nó vang lên đâu đó, ký ức của tôi về bầu trời rộng đến choáng ngợp, người nữ tu xinh đẹp ngồi trên gác gỗ đàn say sưa trong ánh chiều tà, những ước mơ tuyệt vời và sự xúc động mãnh liệt đột nhiên trỗi dậy trong lòng thằng nhóc mười hai tuổi khiến tôi muốn nổ tung lồng ngực... lại trở về nguyên vẹn, sống động như mới hôm qua. Mùi hương của hôm qua ấy vẫn còn trên tóc, trên trán, trên môi tôi. Đó là mùi gió trời, mùi ẩm mốc của đống bản nhạc thấm mưa trên căn gác gỗ, mùi trầm hương sót lại từ thánh lễ nào...
Tôi ngồi chơi vơi trên mái ngói ngoài cửa sổ ngôi thánh đường gỗ suốt buổi chiều hôm ấy. Xơ Trúc Anh chơi đàn liên tục hai giờ. Những bản nhạc của Schubert hiện ra như một dòng suối âm thanh đẹp run rẩy, bay ra cửa sổ rồi quệt ngang má tôi để lại một cảm giác bỏng rẫy.
Sau ngày hôm đó tôi không còn thấy xơ Trúc Anh nữa, chỉ còn xơ già ở lại. Tôi không dám hỏi ai, cất nỗi hụt hẫng vào trong niềm im lặng. Ít lâu sau, tôi đứng ngoài phòng cha xứ nghe lỏm được một câu chuyện đau lòng người ta rì rầm nói với nhau.
Xơ Trúc Anh là con gái út một gia đình quyền thế thời chế độ cũ. Giải phóng xong, cả gia đình di cư sang Mỹ, xơ không đi cùng mà xin ở lại, vào nhà dòng. Nhưng cung cách của xơ không hợp với chốn tu trì, giống như một đóa hoa quá rực rỡ không thể giấu đi sắc hương của nó giữa một khu vườn khiêm cung. Điều đó làm xơ khó sống. Ở giáo xứ tôi ít lâu, xơ phát bệnh tim nặng nên trở về nhà dòng tịnh dưỡng. Xơ đi trong một giấc ngủ vài ngày sau đó, khi chưa kịp khấn trọn đời.
Tôi chạy như điên về nhà, vừa chạy vừa cắn môi để giữ mình đừng khóc. Nước mắt vẫn cứ rớt lộp độp. Tôi bèn nghĩ ra cách khác, vừa chạy vừa đọc kinh Cảm Ơn, cố gắng nhớ rõ ràng nhất để giữ cho mình tập trung. Bài kinh này tôi rất hay nhầm.
Sau hôm đó, tôi không muốn trở lại nhà thờ với vai trò giúp lễ nữa. Tôi lại lặng lẽ đến với Chúa như một thằng bé bình thường, không quá gắn kết, không quá thấu hiểu và không quá bận tâm. Ba tôi chưa bao giờ hỏi vì sao. Hiếm hoi trong đời, ông không bắt tôi giải thích.
Chỉ có ông Từ mỗi lần thấy tôi ngang thì ngoắt lại, véo tai tôi mắng sa sả: "Thằng nhỏ, mê đời chán Chúa rồi chứ gì?". Ông Từ vừa tái giá, lấy cô góa chồng hay may đo lễ phục cho nhà thờ. Lễ cưới rất buồn cười, lần đầu tiên tôi thấy ông không diêm dúa. Từ đó ông cũng không còn mặc những áo sơ mi vải bóng nhìn rất ghê kia nữa, chỉ vận sơ mi trắng. Bù lại, màu cà vạt của ông hôm nào cũng trùng màu áo lễ của cha xứ.
Tôi vẫn giữ ước mơ đi trên những mái nhà, không để làm gì cả, không ăn trộm, không dòm ngó, chỉ đi vậy thôi; dẫu vẫn còn đó nỗi sợ về bầu trời choáng ngợp.
Tôi nghĩ mình phải tập quen với bầu trời, những điều bất trắc.
Sau đó tôi lớn.
Áo Trắng số 27 (ra ngày 1-07-2008) hiện đã có mặt tại các sạp báo. Mời bạn đọc đón mua để thưởng thức được toàn bộ nội dung của ấn phẩm này. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận