21/01/2009 15:48 GMT+7

Chạp mả - mời người đã khuất cùng ăn Tết

ĐĂNG TUYÊN
ĐĂNG TUYÊN

TTO - Trong ngôn ngữ dân gian của người Huế, tảo mộ gọi là chạp mả. Tháng 12 âm lịch được gọi là tháng chạp, mang ý nghĩa sâu xa về đạo lý của người xưa đối với tổ tiên. Quét dọn, làm cỏ, sửa sang lại mồ mả ông bà, cha mẹ được xem là cách để người đã khuất cũng được ăn Tết như người sống.

1tGODfj4.jpgPhóng to
Cả gia đình cùng tảo mộ - Ảnh: Đăng Tuyên
TTO - Trong ngôn ngữ dân gian của người Huế, tảo mộ gọi là chạp mả. Tháng 12 âm lịch được gọi là tháng chạp, mang ý nghĩa sâu xa về đạo lý của người xưa đối với tổ tiên. Quét dọn, làm cỏ, sửa sang lại mồ mả ông bà, cha mẹ được xem là cách để người đã khuất cũng được ăn Tết như người sống.

Thường khi sắp gần đất xa trời, những người già đều muốn con cháu đưa mình về chôn cất ở nơi chôn nhau cắt rốn. Phải chăng, xuất phát từ chuyện kỵ (giỗ), chạp hàng năm, họ lại được những người đang sống quan tâm, chăm sóc cho đỡ hiu quạnh?

Tại các làng quê ở Huế, hàng năm cứ đến tháng chạp, thường các làng quy định ba ngày liên tiếp nhau lần lượt có ba lần chạp mả họ, chạp mả phái và chạp mả nhà, ra giêng còn có một cái chạp nữa là chạp mả làng.

Vào ngày này, tất cả những công việc thường nhật, đồng áng đều được bỏ lại để tập trung cho việc chăm sóc mồ mả người đã khuất. Từ hôm trước, con cháu ở làng dựng rạp, mổ heo, bò, chuẩn bị đậu, nếp. Sáng sớm, con cháu bên nội ở xa kéo nhau về nhà thờ chung của họ để chạp kỵ. Con cháu bên ngoại được quyền đến muộn hơn, thường là vào buổi trưa, khi mâm cúng được dọn ra.

Chạp mả họ, nghĩa là chăm sóc mồ mả trong cùng một họ, những người đã mất từ rất lâu, là ông tổ của họ, đây là chạp lớn nhất. Mỗi họ lại được chia ra nhiều phái.

Chạp mả phái là dịp con cháu chăm sóc mồ mả ông bà từ bậc trên ông cố.

Chạp nhà là chăm sóc mồ mả ông cố, ông nội, cha mẹ trong gia đình.

Chạp mả làng là chạp các mả không nơi nương tựa, mộ vô danh, không thuộc gia đình nào. Dịp này, làng sẽ chạp luôn các mả còn sót lại ở các kỳ chạp trong năm.

Mỗi người được phân công một việc. Đàn ông, số thì ra cồn mồ (nghĩa trang) lẫy cỏ, dọn dẹp, làm sạch sẽ mồ mả, số thì ở nhà lo chuyện hương án, sắp dọn bàn thờ. Phụ nữ thì đi chợ, làm bếp. Không khí ngày chạp mả vì thế mà trở nên nhộn nhịp, vui vẻ, thân tình, là dịp để bà con nội, ngoại biết nhau. Tình cảm ruột rà, thân thuộc, người ở làng, kẻ ở xa từ đó mà gần gũi. Tiếng cười, nói râm ran như những ngày hội làng.

Xế trưa, những người ra các cồn mồ kéo nhau về, lúc đó ở nhà mâm cúng chạp cũng đã được dọn lên. Người trưởng họ, trưởng phái thay mặt con cháu quỳ trước bàn thờ khấn vái, cầu xin tổ tiên, ông bà phù hộ và mời về ăn Tết cùng con cháu. Hương tàn thì lạy tạ bốn lạy để hạ lễ.

Khi mâm cúng được dọn ra, những bậc cao niên, chức sắc lớn trong họ, phái được mời ở mâm cao nhất, con cháu bên ngoại được mời ngồi ăn trước, con cháu trai bên nội và các o (cô), các thím - những người phụ nữ trong họ, phái ngồi ăn sau cùng.

Tục lệ chạp mả được duy trì từ đời này sang đời khác trở thành một nét đẹp trong những tục lệ ăn Tết Nguyên đán của người Việt Nam vốn thấm nhuần đạo lý “Uống nước, nhớ nguồn”. Hàng năm, mỗi khi đi xa về quê ăn Tết, có thêm một dịp để gần gũi, nhìn nhận bà con bên nội bên ngoại, thấy Tết càng thêm nhiều ý nghĩa.

ĐĂNG TUYÊN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên