Người ta dễ nhiễm lạnh nếu nằm ngủ suốt đêm trước quạt máy, nơi có gió lùa hoặc trong môi trường quá lạnh. Khi khí lạnh xâm nhập vào cơ thể, các triệu chứng đầu tiên thường là ớn lạnh dọc xương sống, đau nhức cổ gáy, nhức đầu vùng đỉnh và sau gáy, đau ngang thắt lưng, lạnh 2 bàn chân.
Để có thể phòng, chống bệnh cảm lạnh có sáu việc cần phải làm.
1. Súc miệng, rửa mũi và nhỏ mũi bằng nước tỏi hoặc nước muối sinh lý 0,9%
Khi thấy có những dấu hiệu ban đầu của bệnh cúm như hắt hơi, nhảy mũi, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi... thì phải:
a. Súc miệng bằng nước sạch.
b. Rửa mũi bằng nước muối sinh lý 0,9%.
c. Nhỏ vào mũi mỗi bên 2-3 giọt nước tỏi (ở trẻ em đưới 12 tuổi hoặc những người bị kích ứng với tỏi thì nhỏ bằng nước muối sinh lý 0,9 %).
Làm như vậy mỗi ngày 2-3 lần, sau vài ngày sẽ khỏi bệnh cúm. Trường hợp mắc phải bệnh cúm nặng như nhức đầu, sổ mũi, đau lưng, ớn lạnh... thì tiến hành các việc tiếp theo.
2. Đánh gió
Mục đích là đem khí nóng vào cơ thể ngay trên kinh thái dương để cho thấm qua da.
Dùng 1 đồng xu tròn (hoặc 1 muỗng bằng kim loại) cạnh tròn, không bén và 1 chai dầu (cù là, dầu nóng...). Có thể dùng 1 củ gừng tươi thay thế cho dầu.
Bắt đầu bôi dầu và dùng tay chà xát dọc 2 bên cột sống, cổ, vai rồi dùng cạnh của đồng xu hoặc muỗng đánh vào vùng đó theo chiều hướng lên hay xuống cũng được. Gọi là “đánh” nhưng thật ra là cạo nhẹ nhiều lần cho mặt da nóng lên. Như đã nói, đây là vùng chi phối của 2 kinh Thái dương trong cơ thể.
“Đánh” gió đến lúc nào thì ngưng? Thường đánh cho đến khi cơ thể mất cảm giác ớn lạnh, đau nhức cổ gáy.
Đa số người dân hiện nay thích đánh gió cho đến khi lưng bầm tím, cho rằng như thế là “có gió”, bầm tím bao nhiêu càng hiệu quả vì “gió” bị trục ra ngoài càng nhiều (!). Đây là quan niệm sai lầm vì khi bị nhiễm lạnh, cơ thể chúng ta sẽ đáp lại bằng một loạt các chuỗi phản ứng làm những Mastocyte (dưỡng bào) bị vỡ, phóng thích ra một số chất hóa học, trong đó có chất Histamin.
Chất này gây ra một số triệu chứng của sự dị ứng và làm tăng tính thấm của các mao mạch dưới da. Do đó, khi đánh gió ta đã vô tình làm vỡ các mao mạch này, gây chảy máu. Vết bầm “có gió” chính là sự xuất huyết dưới da.
Nếu dùng củ gừng tươi, ta nên chọn củ to, rửa sạch, cho vào cối giã nhuyễn (cả vỏ), vắt nước cốt lên vùng cần đánh gió rồi dùng bã chà xát cho đến khi người nóng lên. Dùng khăn khô lau sạch bã gừng. Vùng cơ thể được chà xát sẽ nóng ấm lên rất dễ chịu mà sau đó vùng da tại chỗ lại không bị lạnh như một vài loại dầu nóng khác.
Khi nào không nên đánh gió? Vì mục đích đem sức nóng vào cơ thể nên phương pháp này không thể dùng trong trường hợp cảm nắng, trúng nắng. Nếu làm có thể gây nguy hiểm.
3. Xông hơi
Một nắm lá “xông” có bán ở tất cả các chợ, gồm lá sả, lá bưởi, lá ngũ trảo, kinh giới, ngải cứu... Ða số những loại lá này đều có chứa các tinh dầu cay, nóng.
Cách làm: Rửa sạch các loại lá, bỏ vào nồi đậy kín, đun cho nước sôi khoảng 5-10 phút, nhắc xuống để trước mặt người bệnh đang ngồi, trên có trùm một cái mền để giữ hơi. Trong lúc xông, người bệnh nên thở chậm và sâu vì tác dụng chủ yếu khi xông là tác dụng qua đường hô hấp...
Mồ hôi sẽ ra từ từ, bắt đầu từ trán, cổ, gáy, sau đó đến lưng, ngực, bụng. Nên ngừng xông khi thấy trong mình đã nhẹ bớt, hết cảm giác sợ lạnh, sợ gió. Dùng khăn khô lau mồ hôi, thay quần áo khô rồi nằm nghỉ.
Lưu ý khi xông: Chỉ nên cho mồ hôi ra từ từ, rươm rướm trên da. Do đó, khi xông nên mở nắp nồi từ từ. Không bao giờ lạm dụng xông nhiều lần vì sẽ làm mồ hôi thoát ra nhiều, khiến cơ thể mất một lượng nước lớn trong thời gian ngắn mà không bù lại kịp. Cũng cần lưu ý khi nấu nước xông: không nên để sôi quá 15 phút vì sẽ làm các chất tinh dầu (thành phần tác dụng chính trong một nồi xông) bay hơi hết.
Trường hợp nào không nên xông?
- Khi bị cảm sốt và ra mồ hôi nhiều.
- Khi cơ thể quá yếu: Theo y học cổ truyền, khi cơ thể quá suy nhược là tình trạng dương khí yếu. Nếu bị cảm mà xông ra nhiều mồ hôi sẽ càng làm thoát khí dương ra ngoài, khiến cơ thể suy kiệt hơn.
4. Ăn tô cháo giải cảm
Khi cảm lạnh, nếu ăn một tô cháo cảm cũng sẽ giúp cải thiện được sức khỏe.
Do cháo cảm gồm có các thành phần: gạo tẻ (01 nắm), lòng đỏ trứng gà (01 cái), hành lá (01 nắm xắt nhỏ), lá tía tô (01 nắm lớn xắt sợi), gừng tươi (vài lát, xắt sợi)… cũng là những gia vị có tính cay, nóng làm ấm cơ thể.
Nếu ăn nóng (vừa thổi, vừa ăn) thì ăn hết cháo, trùm mền sau 10 phút mở mền ra dùng khăn lau thật hết mồ hôi, sau đó uống 200 ml nước Orezol (1 gói pha 1 lít nước) sẽ có tác dụng giải cảm, tăng cường dinh dưỡng bù nước và điện giải.
Năm 1978, nhà nghiên cứu Marvin Sackner đã lưu ý đến món thuốc dân gian này và chứng minh rằng: hơi nước bốc lên từ tô cháo có tác dụng làm giảm sung huyết vùng mũi tốt hơn là hơi nước bốc lên từ một ly nước sôi. Tác dụng này chỉ có khi thêm vào tô cháo những “nguyên phụ liệu” như đã nói trên.
Lưu ý tác dụng của các loại rau kể trên có được nhờ thành phần chính là tinh dầu. Do đó, nên ăn khi cháo còn nóng và trong lúc ăn nên “tranh thủ” hít hơi nóng bốc lên từ tô cháo càng nhiều càng tốt, bởi vì lúc này, tô cháo còn có tác dụng như một nồi xông nhỏ.
5. Uống nhiều nước ấm
Uống 2 lít nước ấm pha với 02 gói Orezol trong 24 giờ, uống trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh từ 2 đến 3 ngày.
6. Ăn nhiều trái cây có màu vàng, cam và rau xanh
Các loại này có chứa một hàm lượng rất lớn chất chống oxy hóa, vitamin C, carotenoid và bioflavonoid; bất kể là uống thuốc bổ sung vitamin C hay ăn những loại hoa quả có chứa vitamin C như: táo, mơ, cam, quýt, bưởi cà rốt, chanh, xoài, đu đủ, dứa… đều có tác dụng làm giảm triệu chứng cảm cúm. Thông thường, những loại quả có vị chua chứa nhiều vitamin C. Khi uống nước cam bổ sung vitamin C còn có thể làm giảm cảm giác khó chịu ở miệng.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận