02/04/2018 16:37 GMT+7

Thuốc trị ho và những lưu ý

Nguồn: Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương (Bộ Y tế)
Nguồn: Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương (Bộ Y tế)

Ho là cơ chế tự vệ sinh lý quan trọng để làm sạch đường thở. Ho cũng có thể là triệu chứng của một số bệnh, một số rối loạn trong cơ thể.

Thuốc trị ho và những lưu ý - Ảnh 1.

Ảnh minh họa. Nguồn: livestrong.com

Ho là một triệu chứng thường gặp, là một phản xạ tự nhiên của đường hô hấp nhằm làm sạch đường thở khỏi bị ứ đọng các chất dịch tiết, các chất kích thích, vật lạ, vi khuẩn… Nguyên nhân phổ biến gây ra ho bao gồm: Cảm lạnh, nhiễm virus cúm, các tình trạng dị ứng, các bệnh có ảnh hưởng đến đường hô hấp (hen, viêm phế quản, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa…), hút thuốc lá hoặc hút thuốc lá thụ động, ô nhiễm không khí, bệnh lý trào ngược dạ dày- thực quản và một số thuốc nhất định (một số người sử dụng thuốc ức chế men chuyển điều trị tăng huyết áp có thể gây ho, khi ngừng thuốc sẽ hết ho).

Thông thường hay gặp hai loại ho: Ho khan và ho có đờm. Ho khan là tình trạng ho mà không tiết ra các dịch tiết nhầy, thường gây ngứa họng, rát họng và có thê gây khản giọng hoặc mất tiếng. Ho có đờm có đặc trưng là nặng ngực và cơn ho thường khạc ra chất nhầy và đờm. Ho có đờm thường liên quan đến các bệnh đường hô hấp mạn tính.

Thuốc trị ho thông dụng có các nhóm sau (không kể thuốc đông y):

Thuốc giảm ho: Thuốc có tác dụng giảm ho do ức chế trung tâm gây ho như codein, pholcodin, dextromethorphan với các biệt dược như Neocodion, Codepect, Atussin, Rhumenol… Trong đó codein và pholcodin có tác dụng gây nghiện, giảm đau và ức chế nhẹ trung tâm hô hấp. Dextromethorphan không gây nghiện, không có tác dụng giảm đau.

Những thuốc trị ho có chứa codein chỉ dành cho người lớn, không dùng cho trẻ em vì gây ức chế hô hấp. Đặc biệt những thuốc trị ho có chứa codein chống chỉ định cho trẻ dưới 18 tuổi vừa được cắt và/hoặc nạo V.A (dùng để giảm đau). Các thuốc nhóm này, nhất là codein, pholcodin, dextromethorphan, chỉ dùng trong trường hợp ho không có đờm (ho do cảm cúm, ho do kích ứng, dị ứng), ho nhiều làm người bệnh mệt mỏi, mất ngủ, không dùng trong trường hợp ho có đờm (trong bệnh viêm phế quản mạn, giãn phế quản); không dùng cho người suy hô hấp, hen suyễn, trẻ em, phụ nữ có thai và cho con bú.

Thuốc long đờm: Có tác dụng làm loãng đờm do làm tăng sự tiết dịch, do đó tăng thể tích, khối lượng đờm, làm cho đờm loãng ra, dễ tống ra ngoài nhờ phản xạ ho. Các hoạt chất như guaifenisin, ipecacuanha, muối amoni, muối iod, natribenzoat, terpin, với các biệt dược: Acodin, Terpincod, Passedyl, Terpin… 

Thuốc tiêu chất nhầy tác dụng trực tiếp lên đờm, làm thay đổi cấu trúc đờm bằng cách bẻ gãy các cấu trúc hóa học liên kết trong đờm (cầu nối disulphure, cầu nối oligo sacharid) nhưng không làm tăng thể tích, khối lượng đờm, khiến cho đờm giảm độ nhớt, độ quánh, dễ tống ra ngoài khi ho khạc. Đó là các hoạt chất acetylcystein, ambroxol, brohexin, carbocystein…với các biệt dược: Exomuc, ACC, Acemuc, Suresh, Fluidase, Mucosolvan, Halixol, Bisolvon, Eprazinon, Rhinathiol…

Nhóm thuốc long đờm, tiêu chất nhầy làm giảm độ đặc quánh của đờm, chất nhầy để dễ ho khạc nhưng có thể gây tràn dịch phổi và phá hỏng lớp chất nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày. Cần thận trọng với người có tiền sử loét dạ dày- tá tràng. Thuốc long đờm không phải là thuốc chống ho vì thuốc không có tác dụng vào cơ chế gây ho, không cắt cơn ho.

Thuốc kháng histamin: Một số thuốc kháng histamin chống dị ứng (kháng histamine H1 thế hệ 1) đồng thời có tác dụng làm dịu, giảm ho và an thần như diphenylhydramin, chlopheniramin, alimemazine, promethazine với các biệt dược: Phenergan, Theralene, Atussin, Toplexil,… Thuốc được điều trị các chứng ho khan do dị ứng, kích ứng. 

Nhược điểm chính của các thuốc này là gây buồn ngủ do tác động trên các thụ thể H1 ở não vì vậy bất lợi khi dùng thuốc ban ngày nhưng thuận lợi cho dùng về đêm và không được dùng thuốc khi lái xe, lái máy bay, vận hành máy móc… Loại thuốc này cũng có tác dụng làm khô quánh đặc dịch tiết, khó tống đờm, có thể gây ra cục đờm tắc nghẽn vì vậy không nên dùng trong trường hợp ho có đờm, người hen suyễn.

Ngoài ra, thuốc trị ho còn có nhóm các thuốc tê do tác dụng gây tê các ngọn dây thần kinh gây phản xạ ho nên làm giảm ho như các hoạt chất benzonatat, menthol, lidocain… được dùng qua đường hít, ngậm. Các thuốc làm dịu ho do có tác dụng bảo vệ, bao phủ các receptor cảm giác ở họng, hầu như glycerol…

Sử dụng thuốc trị ho cần lưu ý: Thuốc giảm ho chỉ dùng cho trường hợp ho khan, không dùng cho người ho có đờm và có triệu chứng suy hô hấp. Nên dùng liều thấp nhất có tác dụng và trong thời gian càng ngắn càng tốt để hạn chế tác dụng phụ của thuốc. Không dùng đồng thời kết hợp thuốc ho với thuốc long đờm vì đờm sẽ tiết nhiều hơn nhưng không ho khạc ra được. Những thuốc trị ho phối hợp nhiều thành phần (như Neocodion, Codepect, Atussin, Arsiba…) ngoài tác dụng phụ còn có thể có những tương tác bất lợi với các thuốc khác khi dùng cùng lúc.

Tóm lại, ho là cơ chế tự vệ sinh lý quan trọng để làm sạch đường thở. Ho cũng có thể là triệu chứng của một số bệnh, một số rối loạn trong cơ thể. Khi nào sử dụng thuốc trị ho khan, khi nào dùng thuốc long đờm, loãng đờm, thậm chí dùng thêm kháng sinh là điều thầy thuốc luôn quan tâm để sử dụng thuốc trị ho đúng cách và đạt hiệu quả cao nhất.

Nguồn: Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương (Bộ Y tế)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên