29/01/2011 07:12 GMT+7

Nỗi lòng của ông Bảy Nhị

Theo NGUYỄN TRỌNG TÍNPháp luật TP.HCM Xuân
Theo NGUYỄN TRỌNG TÍNPháp luật TP.HCM Xuân

Người ta đã biết kha khá về một ông Nguyễn Minh Nhị quan chức - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang. Có hay không một ông Bảy Nhị nông dân?

“Tôi là con nhà nông, học chưa hết lớp nhất (lớp 5 ngày nay) trường làng đã đi theo cách mạng. Trong kháng chiến, trừ lúc khó khăn ác liệt, còn thì phải lao động sản xuất tự túc như nông dân và đối tượng mà tôi tiếp xúc từ cán bộ cho đến dân thường chủ yếu cũng là nông dân. Vì vậy, bên trong lớp vải đang mặc, dẫu có làm quan hay không thì tôi vẫn là nông dân, tuy mức độ có khác nhau so với bản gốc”. Trò chuyện cuối năm, ông Bảy Nhị bộc bạch.

CAlEUMlB.jpgPhóng to

Ông Bảy Nhị - Ảnh: Ngọc Tùng

Rồi so sánh với nông dân “bản gốc”, ông tự nhận mình: “Giống nhau ở sự chân thành, ngay thẳng, tận tụy với việc làm và chí hướng mình theo đuổi, tự lo liệu cho mình, tình nghĩa, trước sau như một… Khác nhau là khi làm lãnh đạo, tôi cố tránh những hạn chế khách quan sinh ra từ phương thức sản xuất của nông dân. Muốn tránh thì phải có kiến thức, cập nhật thông tin, cho nên tôi phải tự học, thường xuyên đọc sách báo, nghe đài, lắng nghe dư luận, gần gũi mọi thành phần, cả người lao động, trí thức và dân kinh doanh… để điều chỉnh nhận thức và chủ trương, nhằm hạn chế sai lầm, khuyết điểm nếu có.

Tôi có thể tự hào là tôi chưa có đề xuất nào gây hậu quả cho nông dân, không bị thế lực nào chi phối chủ trương đầu tư để cho họ kiếm chác mà dân bị thiệt, ngân sách bị thiệt, hoặc làm ngơ để thiên hạ "chạy dự án". Bây giờ, tôi vẫn sẵn sàng lắng nghe phê bình chứ không phải nghỉ hưu rồi nói mình sạch và nói cho sướng miệng! Tôi rất tâm đắc chữ "vừa phải" của ông bà mình để dè chừng, điều chỉnh hành vi, đạo đức.

Nhưng tôi không đồng tình với chữ "vừa đủ"- nó làm cho con người ta tự thoả mãn nên tôi vẫn tiếp tục những việc mà tôi quen làm và có kinh nghiệm: viết báo khi thấy cần để góp phần thông tin xã hội và làm ruộng, nuôi cá để có thêm của cải; vợ tôi làm nghề mới là mở trường nuôi dạy trẻ. Dù là dân thường nhưng phải giữ cái tư cách mà mình đã từng có trong quá khứ, không can thiệp chuyện địa phương, không làm điều sai trái”. Câu chuyện ông nói chỉ có một chủ đề duy nhất: nông dân.

Bài toán gây giật mình

* Thưa ông, ông nhận thấy bây giờ điều gì làm cho nông dân dễ sống và khó sống bằng nghề nông trên vùng đất bao la của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)?

- Đất đai ĐBSCL đâu còn bao la nữa! Hai triệu hécta đất lúa so với 20 triệu con người chen chúc, mà nước biển đang dần dần dâng lên, nếu không đối phó sẽ không biết đi đâu, về đâu.

Nông dân ĐBSCL chưa từng đói và chết đói nên còn rất dễ sống để làm lương thực nuôi mình và nuôi người nhưng dứt khoát làm nông dân như vừa qua và hiện nay thì không giàu, không sướng. Có thể gọi là sống khó! Một số có tích tụ đất, khá hơn nhưng không phải là đa số. Số đông vẫn thất học, không nghề, không có cơ hội… mà họ còn rất trẻ mới ngặt, nghĩa là cái nghèo khổ còn chia ra nhiều và kéo dài ra quá!

Nhà nước giúp họ trở bộ xem chừng không kịp. Trên dưới 20, 30 tuổi rồi học hành gì nữa. Có chồng, có vợ con lùm đùm, tay làm hàm nhai, cái nhà tình thương, đại đoàn kết gì gì rồi có ngày cũng bán. Có người bức bách quá đi Bình Dương làm công nhân nhưng cũng không thể đổi đời. Xuất khẩu lao động thì rất cơ cực mà đâu phải ai cũng đi được và đi là có tiền gửi về.

Con gái nông thôn ngày nay rất đẹp nhưng cũng rất khó có chồng: người có học thì không lấy họ, người muốn lấy họ thì họ không ưng vì rượu chè, đánh vợ… thôi thà lấy chồng ngoại hay đi "bán bia", "bán hoa"… Họ không có tội, ta đừng lên án!

Lại nữa, bây giờ lao động nông nghiệp tại chỗ chỉ còn lại người già - làm cật lực mà hiệu quả không đổi. Người lao động trẻ thì đi xa mà cũng không làm ra tiền để tích lũy. Trong khi đó, nông dân tiếp tục trắng tay do bán đất vì nợ hoặc vì dự án, nước ngập, sạt lở… Bài toán này mới đáng giật mình cho sự ổn định xã hội.

i2aEg3js.jpgPhóng to
Mùa thu hoạch - Ảnh: Hoàng Thạch Vân

* Theo thống kê của nhà nước thì năng suất, sản lượng, giá trị của sản phẩm nông nghiệp năm nào cũng tăng. Nhưng thu nhập và chất lượng sống của người thuần nông có tăng hay không? Vì sao, thưa ông?

- Thu nhập và chất lượng sống của nông dân có tăng nhưng không đồng đều. Người có đất sản xuất hàng hóa từ năm hecta trở lên, không phải đất thuê thì có cải thiện mức sống và có thể cả chất lượng sống. Phần còn lại, nếu họ không có nghề gì hay thu nhập khác ngoài vài ngàn, thậm chí vài chục ngàn mét vuông đất nông nghiệp thì khó có tăng thu nhập. Bộ phận này còn rất đông.

Cần mở ngoặc nói rõ, ĐBSCL không thiếu gạo cá, vậy mà suy dinh dưỡng ở trẻ em và học vấn phổ thông ngang với Tây Nguyên. Nếu thống kê này là đúng thì thật là đáng hổ thẹn! Thu nhập khu vực nông nghiệp, nông thôn đều tăng nhưng chắc chắn là không tăng quá cao như thống kê. Cách đánh giá tình hình chung có khi cần phải coi lại, đừng như kiểu ví von: hai người ăn chung một mâm, một người ăn một con gà, một người ăn rau, ta thấy ăn chung mâm nên bình quân mỗi người ăn được nửa con gà!

Sản xuất: Chỉ thích làm “khúc giữa”

* Nguyên nhân của phân hóa giàu nghèo của tình trạng vừa nói?

- Do điều kiện khách quan làm cho sản xuất càng lúc càng không thuận lợi: tăng thiên tai, dịch bệnh, nhất là dịch bệnh mới cho cây trồng, vật nuôi; đất sản xuất thu hẹp do chuyển sang phi nông nghiệp, do sạt lở, ngập mặn… mỗi năm đến 75.000 ha tính bình quân trong 10 năm qua. Độ phì nhiêu của đất, nguồn nước và chất lượng nước ngọt suy giảm nhanh. Điều kiện ưu đãi thiên nhiên và sự tăng trưởng do lợi thế của quảng canh không còn…

Trong khi đó, nền sản xuất đương nhiên phải chuyển qua công nghiệp hóa. Ta chưa sẵn sàng nên bị vấp ngay tăng chi phí đầu vào. Chẳng hạn phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu, máy móc… có giá bằng hoặc cao hơn nhiều nước trong khối ASEAN, lãi suất ngân hàng cao nhất thế giới, trượt giá cũng thuộc hạng cao trong khu vực và thế giới, giá nhân công lao động tăng, thậm chí cao hơn Indonesia… kéo theo giá thành hạt lúa Việt Nam cao hơn Thái Lan, Campuchia, Lào, Myanmar…

Giá thành cao nhưng ta không bán được giá cao tương ứng là do khâu tổ chức sản xuất và điều hành xuất khẩu (tiêu thụ gạo). Thu nhập ròng của nông dân ta thấp hơn các nước vừa kể. Đó là do ta thiếu nhạc trưởng. “Chỉ huy” nông dân và chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông, thủy sản có đến mấy bộ: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, Kế họach và Đầu tư, Công Thương và chính quyền địa phương ba cấp. Tuy nhiên, cơ chế và pháp luật không biết đường đâu mà lần.

Ta chưa có nguồn nhân lực và đội ngũ khoa học có tầm cỡ (hoặc có mà không khai thác, sử dụng có hiệu quả) do thiếu tầm sử dụng nhân tài. Ta thiếu những doanh nghiệp và doanh nhân có tâm, có tầm "khôn chợ dại nhà". Cuối cùng là ta thiếu kỷ cương nên tự do trở thành lộn xộn!

Ở tầm vĩ mô mà nói, không chỉ trong sản xuất nông nghiệp, mà ngay như trong công nghiệp, hình như ta chỉ quan tâm khúc giữa, nghĩa là khúc sản xuất mà nhẹ khúc đầu (đầu vào) là đầu tư cho khoa học công nghệ (chất xám) và khúc đuôi thị trường tiêu thụ. Trong khi đó, hai khúc ít được quan tâm này mới có giá trị gia tăng lớn. Càng làm càng cực, càng nghèo là tại chỗ này. Các nước giàu giờ họ chuyển khúc giữa cho các nước nghèo mà ta thì lại thích “lao động sản xuất trực tiếp”.

Tiền khó tới tay nông dân

EIdphfi5.jpgPhóng to
Hạt muối quê tôi - Ảnh: Trần Hữu Thảo

* Chính sách hỗ trợ cho người sản xuất lúa hiện nay bằng cách đưa ra giá sàn mua lúa có cộng thêm 30% lợi nhuận vào giá thành sản xuất có thật sự đảm bảo cho người trồng lúa có lợi?

- Ở Thái Lan họ có giá sàn, có hợp tác xã, có doanh nghiệp tư nhân nông thôn (như hàng xáo lớn ở ta), có kho đủ sức trữ lúa thừa chờ giá lên. Họ tài trợ qua phiếu bán hàng của nông dân, tiền hỗ trợ cho dân được rót về hợp tác xã nên nông dân được hưởng trực tiếp.

Ta thì thiếu kho, không tổ chức hợp tác, liên kết hàng xáo vào hợp tác xã. Nông dân như rắn mất đầu vì không có người kết nối tiêu thụ, còn doanh nghiệp xuất khẩu như ngựa không chân bởi xưa nay doanh nghiệp chỉ liên hệ thu mua trực tiếp với các hàng xáo, tư thương mà bỏ qua nông dân. Vậy nên doanh nghiệp và cả nhà nước nữa không biết nông dân là ông nào bởi vì hàng xáo - không phải thành viên của hợp tác xã đứng giữa.

Không có kho, thương lái lại đứng giữa mà không có hợp tác xã điều phối nên cứ khiến xảy ra cái điệp khúc: hễ giá gạo thế giới lên thì ta hết gạo vì thương lái sau khi thu mua từ nông dân thì bán ngay để thu lợi. Nhưng gạo đầy kho thì vì thiếu kho, ta phải bán để nhập gạo mới nên... bán rẻ. Nước ngoài biết tẩy nên ép ta. Ta biết mà không biết làm sao sửa. Nôn nóng tài trợ lãi suất hoặc thưởng xuất khẩu cho mỗi USD xuất khẩu như trước đây thì doanh nghiệp hưởng trọn chớ nhà nước có biết cụ thể nông dân bán gạo là ông nào mà cho?! Vậy tiếng là hỗ trợ nông dân nhưng tiền đâu tới nông dân.

* Do lịch sử của cả một thời kỳ, cho đến nay, nếu không nói ác cảm thì người ta cũng rất kỵ khi phải nói đến những nhà nông lớn, kinh doanh sản xuất nông nghiệp có tổ chức quy mô. Có quan điểm rằng đó là “địa chủ”. Liệu để đưa nền nông nghiệp đi lên hiện đại, cần những cơ chế gì để phát triển nông nghiệp mà tránh sinh ra những địa chủ ác bá?

- Địa chủ là người nhiều đất, chuyên phát canh thu tô. Ở ta, trước giải phóng, chính quyền Sài Gòn bằng các quy định đã truất hữu địa chủ.

Người có hàng trăm hecta đất, sản xuất theo kiểu trang trại, không bóc lột thì không phải là địa chủ. Ta hiện đang cần thành phần này. Nông dân có thói quen thấy ai nhiều đất thì cho là địa chủ. Cán bộ ta xuất thân từ nông dân nên cũng quen có cách nhìn như vậy nên vừa qua có lắm vấn đề trong cải tạo nông nghiệp mà hậu quả cho đến nay vẫn còn.

Tuy nhiên, đang có tình hình là một số cán bộ và người có tiền đang có nhiều đất cho thuê, họ muốn giữ đất hơn giữ tiền. Cái này phải nghiên cứu thận trọng để có chính sách thúc đẩy sản xuất, không nên nôn nóng cấm đoán, cũng như sợ nông dân phân hoá giàu nghèo mà có chính sách hạn điền. Hạn điền là mức tối đa cấp lần đầu không thu tiền cho nông dân không đất, còn họ tự tích tụ được đất để thúc đẩy nông nghiệp thì phải công nhận chớ!

(Rồi ông Bảy Nhị trầm ngâm) Trong lịch sử, thời Đảng chưa cầm quyền, nông dân rất tin Đảng. Mọi chủ trương của Đảng thông qua các đảng viên được dân tin và làm theo bởi những chủ trương ấy chủ yếu là đấu tranh với kẻ thù đòi quyền lợi cho dân chớ không phải cho riêng Đảng. Nay Đảng cầm quyền, quyền lợi của Đảng và của dân vẫn là một. Nhưng nhiều đảng viên thì vừa có quyền lợi như dân nhưng vừa có quyền khác là lãnh đạo dân. Quyền này lớn lắm nên dễ sinh mâu thuẫn…

(Tôi hiểu tâm tư của ông Bảy Nhị: Từ chủ trương đến cơ chế, cách điều hành đều phải xuất phát từ việc hiểu thấu đời sống mới kịp điều chỉnh để đưa ra mục tiêu và cách làm sát hợp lòng dân. Ước nguyện năm mới này đâu chỉ là ước nguyện của riêng ông Bảy Nhị.)

Theo dự thảo nghị định tích tụ đất đai, có năm hình thức tích tụ ruộng đất, gồm: dồn điền đổi thửa, tập trung ruộng đất lại; chuyển nhượng, thừa kế ruộng đất; thuê đất để tích tụ; góp vốn cổ phần bằng đất để sản xuất nông nghiệp; và tích tụ theo thị trường đất nông nghiệp.

Nhà nước chỉ cho phép tích tụ ruộng đất nhằm mục đích sản xuất nông nghiệp, gồm: tích tụ đối với đất để trồng cây trồng hằng năm; tích tụ để phát triển chăn nuôi tập trung; tích tụ đất lâm nghiệp để làm lâm nghiệp; tích tụ đất để làm nghề muối; tích tụ đất để nuôi trồng thủy sản; tích tụ đất để phát triển cây lâu năm và tích tụ đất để phát triển trang trại tổng hợp.

Người tích tụ phải thực hiện đúng mục đích sau khi tích tụ, sản xuất đúng loại cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch, nếu sử dụng kém hiệu quả hoặc vào mục đích khác sẽ bị thu hồi.

Theo NGUYỄN TRỌNG TÍNPháp luật TP.HCM Xuân
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên