![]() |
Những nông dân đói ăn này đã nói với vị bí thư rằng họ muốn quay trở về “những cách thức cũ” tức là sản xuất nông nghiệp theo hộ gia đình độc lập. Họ đã chán ngấy và mệt mỏi với những hợp tác xã khổng lồ mà trong đó nông dân phải đau khổ chịu đựng sự can thiệp liên miên về chính trị và có rất ít hi vọng được cải thiện đời sống.
Mô hình hợp tác xã về cơ bản đã thất bại. Một nghiên cứu năm 1980 cho thấy đúng 1/4 nông dân Trung Quốc có thu nhập tính theo đầu người hằng năm chỉ ở mức 33 USD ít ỏi. Nông dân thất vọng.
Vị bí thư Đảng ủy địa phương không biết làm cách nào trả lời những đòi hỏi của nông dân nên không nói gì. Nông dân hiểu thái độ im lặng của ông này là một sự chấp thuận ngầm nên họ bắt tay vào việc giải thể hợp tác xã của mình.
Các nhà lãnh đạo sản xuất chia thửa cho mỗi nông dân trưởng thành và cho phép họ được canh tác độc lập trên thửa ruộng đã chia. Đổi lại, tất cả các nông dân phải có nghĩa vụ đóng góp một phần lúa mì mà họ đã sản xuất được cho hợp tác xã. Nông dân nào thu hoạch được nhiều hơn định mức đóng góp bắt buộc đó có quyền bán hoặc giữ lại phần dôi dư để ăn.
Phương thức sản xuất này tại Trung Quốc được gọi là “khoán hộ”, một cách gọi lạ thường để chỉ sản xuất nông nghiệp hộ gia đình. Theo phương thức này, đất đai vẫn do nhà nước sở hữu. Tuy nhiên, phương thức “khoán hộ” cho phép nông dân có quyền tự do nhiều hơn và quan trọng nhất là có nhiều động lực kích thích lao động hơn là mô hình hợp tác xã hoạt động theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Mỗi nông dân được phép cày cấy trồng trọt ở một thửa ruộng đã phân chia cho mình. Nhà nước sau đó bước vào dàn xếp hợp đồng với nông dân mà theo đó, nhà nước mua một phần đã đặt nhất định trong sản lượng làm ra của nông dân với một mức giá cố định. Đối với bất kỳ một phần dôi dư nào nông dân trồng được, họ được quyền giữ lại. Phương thức khoán hộ đã gây nhiều tranh cãi vào thời đó. Chính Mao Trạch Đông đã cấm điều này.
Lo sợ bị trừng phạt, nông dân ở xã Sơn Nam cố gắng giữ bí mật các cuộc cải cách của mình nhưng chắc chắn cũng có người nói lộ ra ngoài. Chỉ trong vài tháng, phương thức sản xuất này đã lan khắp các xã của huyện Phì Tây và sang các huyện bên cạnh. Không được sự cho phép rõ ràng của chính quyền, những người nông dân biết rằng họ đang thực hiện một việc mạo hiểm lớn.
Tại huyện Phượng Dương lân cận, 18 hộ gia đình của Đội sản xuất thôn Tiểu Cương đã cùng thề trước khi áp dụng phương thức khoán hộ rằng họ “sẽ nuôi con cái của những cán bộ trong làng cho đến khi chúng được 18 tuổi” nếu bất kỳ một cán bộ nào “gặp họa”. Các nông dân đã thảo lời hứa này trong một văn kiện chính thức và điểm chỉ vào đó.
May mắn thay cho những nông dân bạo gan của tỉnh An Huy, nhà lãnh đạo của tỉnh này, Bí thư Đảng ủy Vạn Lý, là một trong những nhà cải cách kinh tế tích cực và cởi mở nhất Trung Quốc. Là một người tận tụy với Đặng Tiểu Bình và được Đặng Tiểu Bình che chở, Vạn Lý đặc biệt nhạy cảm với sự đói nghèo của Trung Quốc. Ông đã từng trải qua vài ngày sống cùng với công nhân xe đẩy rác, những người làm một công việc mà chẳng ai thèm muốn là thu gom rác thải sinh hoạt của thành phố, nhằm mục đích hiểu hơn về đời sống của người nghèo.
Sự thấu hiểu này của Vạn Lý khiến ông không có một đồng minh ủng hộ nào trong các hợp tác xã, cái mà ông gọi là “những trại lao động”. Ông đã thử nghiệm cải cách nông nghiệp để ngăn chặn thảm họa nhân đạo đang lù lù hiện ra. Một trận hạn hán dữ dội đã xảy ra tại An Huy và nhiều vùng khác ở miền trung Trung Quốc vào năm 1978.
Tình trạng khủng khiếp mà nó gây ra đã khiến cho Vạn Lý càng ngả về chiều hướng thực hiện sáng kiến. Khi các quan chức trong Đảng than phiền với ông về sự lan rộng của phương thức khoán hộ ở tỉnh An Huy, Vạn Lý đứng đằng sau nông dân, ủng hộ họ và chuyển quyết định tán thành của mình cho các cán bộ ở huyện Phì Tây tiếp tục thực hiện phương thức mới.
Ông đã chọc vào tổ ong. Vạn Lý đối mặt với sự phản đối giận dữ của những người bảo thủ vốn cho rằng ông đang phá hoại di sản của Mao Trạch Đông và phá hoại chính chủ nghĩa cộng sản. Tháng 12-1978, Bắc Kinh triệt để cấm phương thức khoán hộ. Phe phản đối cải cách của An Huy cố tìm cách viết một bài đăng trên lên trang nhất của tờ Nhân Dân Nhật Báo tháng 3 năm sau với nội dung cảnh báo phương thức khoán hộ sẽ “làm giảm sút sự nhiệt tình, cản trở sản xuất và ảnh hưởng nghiêm trọng sự nghiệp hiện đại hóa nông nghiệp”.
Như Vạn Lý diễn tả thì “cuộc chiến rất hăng”. Dù vậy, ông vẫn không chùn bước, sử dụng những lý lẽ tương tự như Đặng Tiểu Bình để làm cơ sở lập luận cho mình. “Bất kỳ một phương pháp nào có thể huy động được sự hăng hái nhiệt tình của quần chúng nhân dân thì cũng đều chấp nhận được”, Vạn Lý nói sau khi đi thăm huyện Phượng Dương tháng 1-1979. “Bất cứ thứ gì có thể gia tăng sản xuất, tạo ra sự đóng góp nhiều hơn cho nhà nước… nâng cao thu nhập của quần chúng nhân dân, cải thiện mức sống của họ cũng đều là phương pháp tốt…".
Thật vậy, sản xuất nông nghiệp cá thể chẳng phải điều gì đáng ồn ào. Sự bền bỉ và thách thức của Vạn Lý đã biến ông trở thành một nhân vật nổi tiếng đối với nông dân tỉnh An Huy. Ở địa phương này đã xuất hiện một câu vần vè: “Ăn cơm là ý của anh. Vạn Lý là người của anh”.
Bắc Kinh không đặt ra bất kỳ một giới hạn nào về việc Vạn Lý có thể đi bao xa. Đặng Tiểu Bình thông cảm với sự nghiệp của Vạn Lý. Những cuộc cải cách tại An Huy gần khớp với ý tưởng thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách khuyến khích vật chất của Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình vẫn thận trọng, nhận thức được bản chất mồi lửa của vấn đề và lo ngại về một phản ứng chính trị dữ dội chống lại liên minh vẫn còn non yếu của ông. Dù vậy, Đặng Tiểu Bình vẫn không ngăn chặn những nỗ lực của Vạn Lý. Ông để Vạn Lý đơn thương độc mã thử thách thời thế chính trị.
Trong khi đó, Vạn Lý đã phát động một chiến dịch nỗ lực vận động hành lang để thúc đẩy trung ương ngả về cách nghĩ của mình. Giữa năm 1979, một quan chức của tỉnh An Huy tên là Quách Sùng Ý, đã được cử đến Bắc Kinh để trình báo cáo rằng những khu vực áp dụng phương thức khoán hộ đã tăng sản lượng ngũ cốc gấp 1,5 lần chỉ trong vòng 1 năm.
Tuy nhiên, những cuộc cải cách của tỉnh An Huy gây tranh cãi nhiều đến nỗi nhiều quan chức của Bắc Kinh thậm chí lo sợ không dám gặp Quách Sùng Ý. Bản báo cáo cuối cùng đến tay Hồ Diệu Bang, người đã ấn tượng đến nỗi viết vào mặt sau của văn bản thể hiện sự tán thành cá nhân đối với cuộc thử nghiệm cải cách. Đó là sự phê chuẩn cụ thể đầu tiên từ Bắc Kinh.
Những ý kiến chống đối mất đi một cách chậm chạp. Tháng 3-1980, Vạn Lý gặp Đặng Tiểu Bình và cố gắng thuyết phục vị lãnh đạo ở trung ương về các cuộc cải cách của mình. Công khai bày tỏ sự hài lòng, Đặng Tiểu Bình đã cất nhắc Vạn Lý lên làm phó thủ tướng và giao cho Vạn Lý chịu trách nhiệm về chính sách nông nghiệp quốc gia sau đó một tháng. Cuối cùng, vào tháng 5, Đặng Tiểu Bình tán thành phương thức sản xuất nông nghiệp theo kiểu khoán hộ.
Nhắc đến những thử nghiệm cụ thể tại An Huy, ông đã nói với các nhà lãnh đạo Đảng rằng phương thức khoán hộ đã “chứng tỏ khá hiệu quả và thay đổi mọi thứ nhanh chóng theo chiều hướng tốt đẹp hơn”. Đặng Tiểu Bình thậm chí còn bác lại những lời chỉ trích cho rằng phương thức này là một bước thụt lùi đối với chủ nghĩa xã hội. Ông nói: “Một số đồng chí đang lo lắng phương thức này có thể tác động bất lợi cho nền kinh tế tập thể. Tôi cho rằng sự lo ngại đó là không có cơ sở.”
Đặng Tiểu Bình lập luận nông nghiệp cần phải được củng cố mạnh lên để chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc có thể tiến lên phía trước. “Có một điều chắc chắn là chừng nào sản xuất còn mở rộng… thì những hình thái tập thể hóa thấp hơn ở nông thôn sẽ phát triển thành những hình thái cao hơn và nền kinh tế tập thể sẽ đạt được một cơ sở vững chắc hơn - Đặng Tiểu Bình nói - Nhiệm vụ chính bây giờ là mở rộng các lực lượng sản xuất để từ đó tạo điều kiện cho sự tập thể hóa phát triển xa hơn”.
Nhờ có sự ủng hộ của Đặng Tiểu Bình, chính quyền trung ương đã ban hành một văn bản cho phép khoán hộ vào tháng 1-1982. Đó là một bước ngoặt. Sáu tháng sau, gần 3/4 các đội sản xuất ở nông thôn của Trung Quốc đã triển khai phương thức sản xuất này. Sản xuất nông nghiệp tăng. Đặng Tiểu Bình và Vạn Lý đã chỉ đạo vấn đề này trong vài năm để xóa bỏ những tồn dư của mô hình hợp tác xã của Mao Trạch Đông, cải thiện kinh tế nông thôn và đời sống của tầng lớp nông dân vốn phải chịu đựng từ rất lâu.
Cuối năm 1983, Vạn Lý phát biểu trong một hội nghị lao động rằng phương thức khoán hộ “không đơn giản chỉ là một phương pháp thiết thực giải quyết vấn đề cơm no áo ấm cho người dân mà còn là một công cuộc cải cách có tầm quan trọng cơ bản liên quan đến toàn bộ hệ thống kinh tế nông thôn, là một điều vô cùng hệ trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Đó là bước khởi đầu cho sự chuyển mình biến đổi của Trung Quốc.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận