Người tiêu dùng phải trả thêm mới mua được hàng nhập khẩu hoặc sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu.
Đây là lần tăng tỉ giá thứ tám kể từ đầu năm 2008 (năm 2008: ba lần, năm 2009 và 2010 mỗi năm hai lần, lần điều chỉnh mới nhất là ngày 11-2-2011), đưa tỉ giá VND/USD tăng thêm 30%, từ 16.000 đồng/USD lên 20.900 đồng/USD.
Trong các đợt tăng tỉ giá, kịch bản luôn lặp lại: thị trường tự do tăng trước, Ngân hàng Nhà nước phải tăng theo. Giới ngân hàng cho rằng lần tăng này khá mạnh, nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có USD sẽ bán, giúp tăng nguồn cung và khai thông thị trường ngoại tệ.
Sự thông thoáng này nếu xảy ra là tích cực. Doanh nghiệp hạch toán đúng giá mua/bán ngoại tệ. Vốn ngoại tệ được chuyển hóa sang VND để đầu tư sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài thôi chờ đợi, mạnh tay bỏ vốn vào thị trường chứng khoán. Nhà xuất khẩu được lợi nhờ bán USD giá cao...
Nhưng như những lần trước, sự thông thoáng trên thị trường ngoại tệ này kéo dài được bao lâu? Hay sau đó thị trường lại hình thành kỳ vọng mới, giá USD tại thị trường tự do lại chạy trước, nạn hai tỉ giá lại hoành hành để rồi Ngân hàng Nhà nước lại phải điều chỉnh.
PGS.TS Trần Hoàng Ngân - thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia - nói trên Tuổi Trẻ rằng không thể phá giá VND mãi. Thực tế cho thấy tỉ giá tăng mãi đã kích thích găm giữ ngoại tệ, giảm lòng tin vào đồng tiền quốc gia, đôla hóa trầm trọng hơn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp không vay ngoại tệ nhập máy móc thiết bị mới khi phải đối phó với thua lỗ do tăng tỉ giá. Lãi suất cao, tăng tỉ giá, lợi nhuận làm ra khó bù đắp cho mất giá.
Người có ngoại tệ sẽ không vội bán mà găm giữ chờ giá lên, một lượng vốn khổng lồ của xã hội không quay vòng mà bị đổ vào đầu cơ. Người tiêu dùng liên tục chịu cảnh giá cả tăng...
Khá nhiều chuyên gia cho rằng VND có thể không mất giá nhiều trong thời gian ngắn như thế. Nền kinh tế đang phải nhập siêu (chi USD cho nhập khẩu cao hơn nguồn thu USD từ xuất khẩu) nhưng chúng ta còn có nhiều nguồn thu USD khác (viện trợ và vay nợ nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài, kiều hối...).
Nhiều thời điểm, thu ngoại tệ vẫn cao hơn chi cho trả nợ và nhập khẩu, đủ bù đắp khoản thâm hụt do nhập siêu. Nhưng tỉ giá luôn chịu sức ép phải tăng do nạn găm giữ USD tràn lan mà nguyên nhân có phần do điều hành làm giảm sút lòng tin của người dân vào sức mua của đồng tiền.
Thực tế chúng ta không thiếu USD nhưng ai cũng nghĩ USD còn tăng nên tất cả cùng giữ lại, đẩy ngân hàng vào chỗ khan hiếm USD đúng giá niêm yết nhưng thừa USD giá cao.
Mức điều chỉnh tỉ giá lần này là khá cao nhưng cũng đã xuất hiện những yếu tố hỗ trợ để điều hành tỉ giá theo hướng tăng lòng tin vào VND. Kiểm soát nhập siêu đang có hiệu quả, cả năm 2010 chỉ còn tương đương 17,2% kim ngạch nhập khẩu. Chi tiêu công đang được thắt chặt, bội chi ngân sách năm 2011 dự kiến còn 5,3% GDP thay vì 5,8% như năm 2010. Ẩn số còn lại đó là giá vàng, quản lý thị trường vàng.
Hiện đề án quản lý thị trường vàng và khai thác vốn vàng trong dân mới được manh nha. Nếu sớm quản lý tốt thị trường vàng, áp lực lên tỉ giá, đặc biệt là tỉ giá tại thị trường tự do, sẽ giảm đi rất nhiều.
Tăng tỉ giá, có cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế nhưng yếu tố tiêu cực sẽ bớt đi khi việc điều chỉnh trong thế chủ động chứ không phải bị động.
Vì vậy, các chuyên gia cho rằng chủ trương “điều hành tỉ giá linh hoạt, theo tín hiệu thị trường” mà Ngân hàng Nhà nước đã đeo đuổi nhiều năm qua phải nhắm đến mục tiêu chủ động điều chỉnh, tạo lòng tin vào VND, giúp mọi người an tâm bỏ vốn sản xuất kinh doanh - đầu tư, chứ không phải bị thúc ép điều chỉnh “chạy theo thị trường”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận