![]() |
Hầu như các chức danh bộ trưởng thương mại, công nghiệp, môi trường hay thống đốc ngân hàng trung ương, lãnh đạo cấp cao trong ủy ban hoạch định chính sách luôn luôn nằm trong tay các thành viên của “Nhóm Mafia Berkeley” hay những người được nhóm này bảo trợ. “Nhóm Mafia Berkeley” dường như bám chặt vào Suharto và chế độ Trật tự mới.
Tuy nhiên, “Nhóm Mafia Berkeley” chưa bao giờ kiểm soát được đầy đủ toàn bộ chính sách. Quyền lực đó do Suharto nắm giữ. Và ông thường bị lực lượng phản đối lộ trình phát triển dựa vào thị trường tự do của “Nhóm Mafia Berkeley” lôi kéo ra xa khỏi con đường đang đi. Nhân vật ảnh hưởng nhiều nhất là Bacharuddin Jusuf (B.J.) Habibie, lãnh đạo của lực lượng ủng hộ dân tộc chủ nghĩa.
Habibie và Suharto gặp nhau lần đầu tiên vào năm 1950. Suharto khi đó đang tham gia một chiến dịch quân sự truy quét một nhóm phiến loạn ở đảo Sulawesi thuộc miền đông Indonesia, còn gia đình Habibie thì sống dọc theo một con đường nơi lữ đoàn của Suharto đóng trại. Mẹ của Habibie gốc là người ở đảo Java. Bà thường mua vui cho đám binh sĩ bằng những câu chuyện kể bằng tiếng Java.
“Không khí ở nhà của Habibie làm chúng tôi cảm thấy thật sự như ở nhà mình”, Suharto về sau viết. Khi đó mới chỉ là một thanh thiếu niên, Habibie tiếp tục trở thành kỹ sư nổi bật nhất Indonesia.
Năm 1955, Habibie bắt đầu xuất dương sang Đức theo đuổi việc học hành tại Trường kỹ thuật Rheinisch-Westfälische Technische Hochschule Aachen, nơi ông lấy được bằng tiến sĩ chuyên ngành kỹ sư hàng không. Sau đó, Habibie làm việc cho một nhà sản xuất máy bay của Đức mà về sau sáp nhập thành Hãng Messerschmitt-Bölkow-Blohm.
Habibie tài năng đã đạt được nhiều thành công đột phá quan trọng trong lĩnh vực thiết kế máy bay và sắp sửa thăng tiến lên chức phó chủ tịch công ty kiêm giám đốc ứng dụng kỹ thuật. Kinh nghiệm của Habibie trong ngành sản xuất máy bay ở Đức, trong suốt thời kỳ đất nước này cũng đang trải nghiệm điều kỳ diệu về kinh tế theo kiểu riêng của mình, đã ảnh hưởng đến tư tưởng của ông về phát triển. Ông đã tạo mối liên kết giữa công nghệ và tăng trưởng mà ông mang theo mình về Indonesia.
Suharto đã giữ liên lạc với Habibie trong suốt thời kỳ này. Vào năm 1970, cả hai gặp gỡ nhau trong một chuyến thăm chính thức cấp nhà nước của Suharto tới Đức. Vị tổng thống đã nói với Habibie phải “mở rộng kiến thức và kinh nghiệm của mình trên các lĩnh vực có thể sẽ đem lại lợi ích cho chính đất nước và nhân dân Indonesia”.
Ba năm sau, Suharto gửi một lá thư cho Habibie với nội dung nói rằng đã đến lúc chín muồi cho cuộc trở về. Một tháng sau, vào tháng 1-1974, Habibie về nước. Suharto nói với Habibie: “Anh có thể làm bất cứ điều gì đại loại như tạo ra một cuộc cách mạng như anh muốn (ở Indonesia)”.
Thông điệp kinh tế của Habibie xung đột trực tiếp với chủ trương của “Nhóm Mafia Berkeley”. Widjojo, Wardhana và các đồng nghiệp của họ muốn gắn Indonesia với nền kinh tế thế giới và lợi dụng các lực lượng toàn cầu hóa. Habibie cho rằng chiến lược của “Nhóm Mafia Berkeley” thiếu một chính sách công nghiệp. Nếu đi theo hướng của “Nhóm Mafia Berkeley”, Indonesia sẽ phát triển dựa trên nền tảng lao động giá rẻ và nhiều lợi thế tự nhiên khác.
Tuy nhiên, Habibie cho rằng tiến trình này cuối cùng cũng sẽ hết hơi. Để Indonesia tiếp tục phát triển, đất nước cần phải tiếp nhận công nghệ cao và “chọn ra những kẻ chiến thắng”, nghĩa là tập trung vào những ngành nghề chiến lược theo phong cách của MITI để xây dựng lợi thế cạnh tranh mới ở Indonesia. Habibie muốn tái tạo dựng các chương trình phát triển công nghiệp của Park Chung Hee ở Hàn Quốc, thậm chí nhà nước sẽ đóng vai trò can thiệp lớn hơn.
Ông cho rằng khu vực tự nhân không thể đầu tư dài hạn cho nên nhà nước cần phải đảm nhận vai trò lãnh đạo. Các kỹ sư và những chuyên gia được đào tạo trong các doanh nghiệp nhà nước này rồi sẽ tỏa ra khắp nền kinh tế và xây dựng nên những doanh nghiệp công nghệ cao mới.
Trong một diễn văn năm 1993, Habibie phát biểu: “Đẩy mạnh các ngành công nghệ cao và sản xuất hàm chứa nhiều giá trị gia tăng dù không đem lại tăng trưởng cao trong ngắn hạn… nhưng trong dài hạn, lợi ích quốc gia sẽ được đáp ứng tốt vì phát triển kinh tế quốc gia sẽ không còn phụ thuộc vào sự phân chia lao động quốc tế". Habibie muốn ứng dụng các thành tố trong “mô hình châu Á” để chuyển đổi cấu trúc kinh tế của Indonesia sang công nghệ cao.
Ngay khi Habibie trở về nước, Suharto đưa Habibie vào làm trưởng bộ phận công nghệ cao của công ty xăng dầu nhà nước Pertamina. Sau khi Pertamina vỡ nợ, không thanh toán được nhiều khoản nợ nước ngoài khổng lồ và cần đến một kế hoạch giải cứu do “Nhóm Mafia Berkeley” vạch ra, Suharto lại thăng chức cho Habibie làm Bộ trưởng Nghiên cứu và Công nghệ vào năm 1978.
Habibie phát triển và quản lý một đế chế quốc doanh gồm 10 công ty hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất vũ khí, viễn thông, thép và thiết bị nặng; tất cả đều được nhiều nguồn ngân quỹ gần như không có giới hạn của chính phủ tài trợ. Habibie cũng lãnh đạo một ủy ban kế hoạch các ngành công nghệ cao cạnh tranh với hội đồng hoạch định do “Nhóm Mafia Berkeley” kiểm soát.
Widjojo, Wardhana và những người đồng chí hướng đã phản đối các kế hoạch của Habibie và sử dụng vai trò ảnh hưởng to lớn của họ để chặn đứng chương trình của ông này. Họ cho rằng các ngành công nghệ cao mà Habibie ưu tiên phát triển là quá tiên tiến đối với một đất nước vừa mới bắt đầu tự nuôi sống bản thân mình. Họ cũng không thoải mái với chuyện nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong việc xây dựng những ngành mới này.
Thông điệp của “Nhóm Mafia Berkeley” bắt đầu không thể lọt vào đôi tai bịt kín như điếc của Suharto. Một phần nguyên nhân nằm ở mối quan hệ cá nhân thân thiết mà Habibie đã thiết lập với Suharto, một mối quan hệ dễ dàng cạnh tranh và có rất nhiều khả năng vượt qua quan hệ giữa Suharto với Widjojo và “Nhóm Mafia Berkeley”. Suharto có lần viết về Habibie rằng “cậu ấy xem tôi như cha của riêng mình”.
Habibie cũng biết cách làm thế nào để thuyết phục người đỡ đầu tin vào các ý tưởng của mình. Habibie là một nhà hùng biện thông minh có khả năng làm mê hoặc Suharto bằng kiến thức am hiểu tinh thông về kỹ thuật của mình nhưng đồng thời vẫn tỏ ra khiêm tốn, thấp kém trước nhân vật chuyên quyền. Habibie “không phải là loại người cho rằng mình hiểu biết nhất”, Suharto viết.
“Mỗi lần Habibie báo cáo cho tôi, cậu ta dành hàng giờ với tôi chỉ vì cậu ta muốn biết tôi nghĩ gì về những vấn đề cậu ta đưa ra và triết lý của tôi là gì.”
Bí mật thật sự trong thành công của Habibie là chia sẻ khuynh hướng cùng ưa thích những dự án khổng lồ với Suharto. Rất giống với Park Chung Hee, Suharto mê mẩn ngành công nghiệp nặng. Một phần niềm say mê này bắt nguồn từ nền tảng kinh nghiệm trong quân đội của Suharto. Cũng giống Park Chung Hee, Suharto tin rằng các nhà máy thép là tốt cho quốc phòng.
Thậm chí còn hơn thế nữa, Suharto đánh đồng một quốc gia Indonesia công nghiệp hóa với một đất nước Indonesia hòa bình và thống nhất. Ông viết: “(Indonesia) cần phải được xem như một quốc gia độc lập chủ quyền” và “điều này đòi hỏi phải phát triển các ngành chiến lược của riêng chúng ta để tự giải thoát mình khỏi sự phụ thuộc vào các nguồn lực nước ngoài”.
Suharto ngày càng trở nên ưa thích quan điểm phát triển của Habibie. So với các kế hoạch của Habibie, triết lý tăng trưởng định hướng thị trường và doanh nghiệp tư nhân qui mô nhỏ của “Nhóm Mafia Berkeley”dường như không hấp dẫn cũng chẳng bền vững. “Lịch sử đã chứng minh rằng chỉ có tuân theo sự điều khiển của khoa học và công nghệ thì một quốc gia mới tiến bộ được” - Suharto viết. “Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào không thôi chưa đủ để đưa đất nước chúng ta tới một mức sống cao và một chương trình phúc lợi rộng lớn”, ông viết tiếp.
Sự phát triển các ngành công nghiệp theo kiểu của Habibie “bắt nguồn từ nhận thức của chúng ta về các vấn đề tồn tại và những mặt yếu kém trầm trọng mà chúng ta sẽ đối mặt trong tương lai nếu chúng ta vẫn liên tục phụ thuộc vào khoa học và công nghệ của các nước khác”.
Emil Salim tin rằng Suharto khi đó đang nghĩ về gia tài của mình, một gia tài có thể được làm cho phình to hơn nhờ vào các nhà máy sản xuất vũ khí tự phát triển trong nước thay vì nhờ vào các nhà máy sản xuất dầu cọ. Salim khẳng định: “Tất cả các nhà lãnh đạo vĩ đại đều khổ sở vì một điều giống nhau. Họ muốn được đời đời tưởng nhớ đến mình.” Kế hoạch của Habibie “thỏa mãn được cái tôi” (của Suharto).
Không có dự án nào thể hiện tầm ảnh hưởng của Habibie rõ hơn những nỗ lực của Indonesia trong việc phát triển sản xuất máy bay của riêng mình, một ý tưởng nảy sinh trong một lần gặp gỡ giữa Habibie và Suharto không lâu sau khi Habibie từ Đức trở về nước. Habibie đề nghị với Suharto rằng ông muốn tận dụng kiến thức am hiểu tinh thông của mình về ngành hàng không và khởi dựng một công ty sản xuất máy bay. Suharto thông qua kế hoạch này ngay lập tức.
Ban đầu, Pertamina đỡ đầu cho dự án nhưng sau khi công ty này lâm vào tình trạng vỡ nợ tài chính thì một công ty nhà nước mới tên là Công nghiệp máy bay Nurtanio, về sau đổi thành IPTN, lại được hình thành vào năm 1976 mà Habibie là người lãnh đạo. Habibie quyết định bỏ qua các bước đệm trung gian để bước vào ngành sản xuất máy bay, chẳng hạn như sản xuất linh kiện, mà thay vào đó là lựa chọn lắp ráp hoàn chỉnh máy bay.
Ban đầu, Habibie có được các giấy phép lắp ráp máy bay và trực thăng do ba công ty châu Âu (trong đó có công ty cũ của Habibie là Messerschmitt) thiết kế. Năm 1979, Habibie ký kết với một công ty Singapore thành lập một liên doanh thiết kế, phát triển và sản xuất một loại máy bay của Indonesia có 40 chỗ ngồi với tên gọi là CN-235. Chiếc đầu tiên lăn bánh khỏi dây chuyền sản xuất của IPTN vào năm 1983.
Suharto bị mê hoặc trước những chiếc máy bay của Habibie. Vào giữa những năm 1990, ông trông đợi IPTN sẽ có 40.000 nhân viên. “Thử hỏi có bất kỳ một ngành nào của chính phủ có thể làm được điều tương tự hay không?”.
Suharto hỏi. “Câu trả lời là chẳng có ngành nào.” Ông đặt ra một mục tiêu quốc gia là mua máy bay của Habibie để ủng hộ công ty mới bắt đầu phát triển của nhân vật này. “Nghĩa vụ của chúng ta là mua hàng hóa của chính mình ngay cả khi chúng có thể không hoàn hảo”, Suharto viết.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận