08/02/2017 17:00 GMT+7

​Vảy nến: bệnh lành tính nhưng khó trị

Nguồn: Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe TP.HCM
Nguồn: Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe TP.HCM

Vảy nến là một bệnh lý viêm mạn tính, miễn dịch qua trung gian tế bào, có liên quan tới gien di truyền, biểu hiện ngoài da hoặc khớp, hay cả da và khớp.

Ước tính có khoảng 2 - 3% dân số thế giới mắc bệnh, trong đó bất kỳ lứa tuổi nào cũng có thể bị vảy nến nhưng thường gặp nhất là 15-35 tuổi. Tỷ lệ bệnh gần như bằng nhau ở nam và nữ giới, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế xã hội nào. Vảy nến cũng xuất hiện ở tất cả các dân tộc nhưng với tỷ lệ khác nhau.

Hiện tại chưa ai biết chính xác nguyên nhân gây ra bệnh vảy nến, nhưng người ta tin chắc bệnh có liên quan tới yếu tố gien. Các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng hệ thống miễn dịch của cơ thể phát ra những tín hiệu sai lệch làm kích hoạt tốc độ phát triển của tế bào da nhanh một cách bất thường. Một tế bào da bình thường trưởng thành và rời khỏi bề mặt da trong khoảng 28 - 30 ngày. Nhưng tế bào da của người bệnh vảy nến chỉ cần 3 - 4 ngày là trưởng thành và di chuyển lên bề mặt da, thay vì rơi ra, chúng lại dính với nhau và tạo nên vảy nến.

Thương tổn đặc trưng là mảng da màu đỏ, giới hạn rõ, bề mặt có vảy trắng, dễ tróc, thường xuất hiện ở da đầu, đầu gối, cùi chỏ và thân mình. Ngoài ra thương tổn cũng có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của cơ thể như móng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng sinh dục và mặt...

Có 5 thể vảy nến, đó là: vảy nến mảng (thường gặp nhất chiếm khoảng 80%), vảy nến giọt, vảy nến đảo nghịch, vảy nến mủ và vảy nến đỏ da toàn thân.

Các thương tổn da của bệnh vảy nến nhìn có vẻ ghê sợ nhưng hoàn toàn không lây cho người khác. Do vậy chúng ta không nên kỳ thị hay xa lánh bệnh nhân vảy nến.

- Bệnh lành tính nhưng cần lưu ý tầm soát các bệnh lý kèm theo

Trong hầu hết các trường hợp, vảy nến diễn tiến lành tính, bệnh nhân có thể sống chung với bệnh mà không có ảnh hưởng đáng kể về mặt sức khỏe, ngoại trừ ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ. Tuy nhiên cần lưu ý một số bệnh kèm theo xuất hiện trước, trong hoặc sau khi khởi phát vảy nến như viêm khớp vảy nến, hội chứng chuyển hóa, bệnh tim mạch...

Vảy nến khớp là một dạng đặc biệt của viêm khớp xảy ra khoảng 10 - 30% bệnh nhân vảy nến. Ở vảy nến khớp, các khớp và mô mềm xung quanh khớp bị viêm đỏ và cứng. Vảy nến khớp có thể bị ở ngón tay, ngón chân, và có thể xảy ra ở cổ, lưng, ngón chân và mắt cá. Trong những trường hợp bệnh nặng, vảy nến khớp có thể gây biến dạng và phá hủy khớp không hồi phục. 

Hiện nay người ta nói nhiều đến một số rối loạn chuyển hóa kèm theo vảy nến như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, béo phì, xơ vữa động mạch…Đây chính là những yếu tố nguy cơ tim mạch do vậy cần lưu ý và tầm soát để phát hiện sớm trên bệnh nhân vảy nến.

- Một số yếu tố khởi phát hoặc làm vảy nến nặng hơn

Stress có thể làm bộc phát bệnh vảy nến lần đầu tiên hoặc làm bệnh trở nặng hơn. Vảy nến có thể xảy ra ở vị trí da bị chấn thương, người ta gọi đó là hiện tượng Koebner. Chích ngừa, phơi nắng, cào gãi cũng có thể gây hiện tượng Koebner. Một số thuốc như: thuốc chống sốt rét, lithium, một vài thuốc ức chế beta cũng là tác nhân làm bùng phát bệnh; các yếu tố khác như: thay đổi khí hậu, chế độ ăn, dị ứng…

- Có thể kiểm soát nhưng không thể trị khỏi hẳn vảy nến

Hiện tại có rất nhiều phương pháp điều trị vảy nến, tuy nhiên vẫn chưa có cách nào điều trị khỏi hẳn bệnh. Chúng ta hy vọng trong tương lai sẽ có thể thay đổi các gien gây bệnh này hoặc một ngày nào đó sẽ có các phương pháp điều trị bệnh hiệu quả hơn, chuyên biệt hơn cho nhiều dạng vảy nến. 

Mặc dù vảy nến không thể khỏi hẳn nhưng chúng ta có thể kiểm soát bệnh trong một khoảng thời gian vài tháng thậm chí vài năm. Đôi khi, bệnh không tái phát trở lại, nhưng đa số bệnh nhân mang bệnh mạn tính kéo dài với từng đợt bùng phát và hết bệnh xen kẽ nhau.

Diễn tiến của bệnh vảy nến khó mà đoán trước được gây ra sự khó khăn trong điều trị ở nhiều bệnh nhân. Điều quan trọng là phải có đời sống tinh thần thoải mái và đi khám chuyên khoa da để tìm ra phương pháp điều trị thích hợp với tình trạng của mình.

Nguồn: Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe TP.HCM
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên