Thời gian gần đây, bệnh sốt mò xảy ra ở Yên Bái, tập trung nhiều ở các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải, thị trấn Nghĩa Lộ. Từ tháng 4 đến tháng 9/2014 đã có 78 bệnh nhân sốt mò, chủ yếu là người dân tộc sống ở núi cao.
Bệnh xảy ra chủ yếu từ tháng 4-5 đến tháng 9-10
Mò và ấu trùng ưa sống ở nơi đất xốp, ẩm mát trong các khe hang, ven bờ sông suối, nơi râm mát có bụi rậm và cây thấp có quả hạt để chờ thú nhỏ - gặm nhấm lui tới. Người có thể bị đốt trong các điều kiện như: sinh hoạt lao động trong ổ dịch; phát rẫy làm nương; đi dã ngoại; ngồi, nằm nghỉ, trên bãi cỏ…
Sốt mò là bệnh truyền sang người qua trung gian ấu trùng mò. Như vậy, mò vừa là vật chủ vừa là vectơ truyền bệnh; người bị nhiễm bệnh khi bị ấu trùng mò đốt.
Bệnh sốt mò xuất hiện ở Việt Nam quanh năm, nhưng chủ yếu về mùa mưa từ tháng 4-5 đến tháng 9-10, đỉnh cao vào tháng 6-7.
Bệnh thường tản phát nhưng có thể bùng thành dịch khi có nhiều người chưa miễn dịch đi vào đúng ổ dịch. Bệnh gặp chủ yếu ở vùng nông thôn rừng núi (80,5%), hiếm ở thành thị.
Mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, nhưng chủ yếu ở lứa tuổi lao động, phân bố theo tính chất nghề nghiệp (lâm nghiệp, nông nghiệp, bộ đội).
Người bệnh không có khả năng truyền bệnh sang người khác.
Triệu chứng của bệnh
Theo Cục Y tế dự phòng, thời kỳ ủ bệnh sốt mò trung bình từ 8-12 ngày. Lúc đầu tại nơi ấu trùng mò đốt có một nốt phỏng nước bằng hạt đỗ, không đau nên bệnh nhân thường không chú ý.
Vào thời kỳ toàn phát, người bệnh có thể sốt cao, liên tục, kéo dài 15-20 ngày thậm chí tới 27 ngày nếu không điều trị; có khi rét run 1-2 ngày đầu kèm theo sốt, nhức đầu nặng, đau mỏi cơ.
Nốt loét đặc trưng (điển hình của sốt mò) thường ở vùng da mềm, ẩm như bộ phận sinh dục, vùng hạ nang, hậu môn, bẹn, nách, cổ…; đôi khi ở vị trí bất ngờ trong vành tai rốn, mi mắt (dễ nhầm với lẹo mắt).
Đặc điểm của nốt loét là không đau, không ngứa và xuất hiện ở 65-80% các truờng hợp. Nốt phỏng ban đầu phát triển dần thành dịch đục trên một nền sẩn đỏ, sau 4-5 ngày vỡ ra thành một nốt có vẩy nâu nhạt hoặc sẫm tùy vào vùng da mềm hay cứng và độ non hay già của nốt loét.
Sau một thời gian, vẩy bong để lộ nốt loét đáy nông, hồng nhạt, không mủ, không tiết dịch, bờ viền hồng đỏ hoặc thâm tùy theo bệnh đang phát triển hay đã lui; từ khi hết sốt nốt loét liền dần.
Đối với bệnh nhân nặng hay gặp các dấu hiệu như: tiếng tim mờ, huyết áp thấp, mạch chậm so với nhiệt độ, chảy máu cam, viêm phế quản, viêm phổi không điển hình...
Biện pháp phòng bệnh
Do chưa có vaccine phòng bệnh, vì thế, để phòng tránh bệnh, người dân ở vùng có nguy cơ nhiễm bệnh cao cần:
Tránh ngồi, nằm, phơi quần áo, đặt balô trên bãi cỏ, gần bờ bụi, gốc cây; khi đi phát nương làm rẫy, hành quân dã ngoại, trinh sát vào rừng cần mang giày và tất, chít ống quần.
Có thể tẩm quần áo bằng thuốc diệt mò hoặc sử dụng các kem xua diệt mò.
Diệt mò ở môi trường bằng cách phun tồn lưu vào đất ẩm, bờ bụi cây cỏ cao dưới 20cm quanh nhà nơi râm mát bằng thuốc diazinon, fenthion...
Diệt chuột theo mùa, chú ý rắc thuốc diệt mò trước.
Phát quang bụi rậm xung quanh nhà, chọn lọc các đám thực vật có nhiều ấu trùng mò (ổ mò).
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận