11/07/2017 16:15 GMT+7

​Những thói quen xấu làm hỏng răng trẻ

Nguồn: Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Đồng Nai
Nguồn: Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Đồng Nai

Mút ngón tay, ngậm núm vú giả, thở bằng miệng… là những thói quen xấu làm trẻ dễ bị hỏng răng, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển răng-hàm-mặt của trẻ.

Bởi vậy, để giúp trẻ sở hữu một hàm răng chắc khỏe, ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc chăm sóc răng miệng, các bậc cha mẹ cần lưu tâm đến những thói quen xấu của trẻ.

Thói quen mút ngón tay và ngậm núm vú giả

Mút ngón tay và ngậm núm vú giả là thói quen xấu rất hay gặp ở các bé dưới 5 tuổi. Tác hại của thói quen này tùy thuộc vào số lần mút trong ngày và thời gian kéo dài của mỗi lần mút. Mút ngón tay không chỉ gây mất vệ sinh, tăng nguy cơ nhiễm giun sán mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển của răng và xương vùng hàm mặt như:

- Khi bé có thói quen mút ngón tay, ngậm núm vú giả sẽ làm tăng nguy cơ răng cửa hàm trên của bé bị chìa ra ngoài gây ra hiện tượng thưa răng và rất dễ bị gãy răng nếu có những va chạm vào.

- Khi mút ngón tay, ngậm núm vú giả thì má của trẻ hóp lại làm cho răng hàm của hàm trên bị ép lại và nằm ở phía trong của răng hàm dưới làm sai lệch khớp cắn. Đây là nguyên nhân gây đau khớp thái dương hàm và khớp cắn hở.

- Thói quen mút tay còn làm cho lưỡi của bé bị đẩy ra ngoài do răng hàm trên và răng hàm dưới không khít với nhau làm ảnh hưởng nặng tới sự phát âm của bé. Có thể bé sẽ phát âm khó khăn hoặc nói ngọng nghịu.

- Mút ngón tay và ngậm núm vú giả thường xuyên còn làm cho bé dễ mắc nguy cơ bị vẩu do môi dưới bị ép nằm lại nằm phía sau răng cửa hàm trên.

Thói quen đưa lưỡi ra trước và cắn môi dưới

Tật đưa lưỡi ra trước và cắn môi ở trẻ sẽ làm cho trẻ dễ bị vẩu răng trên và khớp cắn bị hở gây ảnh hưởng tới chức năng ăn uống của răng miệng.

Thở bằng miệng

Thói quen thở bằng miệng là nguyên nhân khiến cho trẻ bị khô niêm mạc miệng, lệch lạc răng và hàm, dễ gây ra nguy cơ sâu răng và nhiễm khuẩn đường hô hấp. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng bé có thói quen thở bằng miệng thường do bé mắc các vấn đề về đường hô hấp.

Chống cằm

Trẻ lớn thường có thói quen chống tay vào cằm, thói quen này không gây xô lệch răng một cách đáng kể ngay tức thì nhưng nếu kéo dài có thể gây hô hàm dưới tức là hàm dưới đưa ra hàm trên thụt vào, có thể khiến cho trẻ bị móm.

Cắn móng tay, gặm bút chì

Các thói quen cắn móng tay, gặm bút chì, cắn các vật cứng rất có hại vì sẽ làm cho răng trẻ bị mòn, dễ rạn nứt, mẻ, lâu ngày có thể làm chết tủy răng và mỏi khớp thái dương. Ngoài ra, trẻ dễ mắc nguy cơ bị sưng tấy hay nhiễm trùng phần da xung quanh móng hay dễ nhiễm các bệnh giun sán.

Nghiến răng

Nghiến răng thường xuyên sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ cơ và các khớp thái dương của hàm răng, khiến cho hệ thống nhai bị suy yếu. Chưa kể đến một số bé có thói quen nghiến răng mạnh sẽ làm vỡ men răng sữa hoặc gây mòn răng. Nếu trẻ thường xuyên nghiến răng sẽ làm nướu và hàm răng thay đổi bất thường, xấu hơn có thể làm khuôn mặt biến dạng.

Biện pháp phòng tránh

Để giúp trẻ từ bỏ những thói quen xấu có hại đến sự phát triển răng miệng, các bậc phụ huynh nên kiên quyết bắt trẻ bỏ thói quen xấu ngay từ đầu vì càng để lâu càng khó bỏ:

- Đối với những trẻ hay mút tay từ lúc 2 - 3 tháng tuổi, tìm cách không cho trẻ gập khuỷu tay lại để đưa ngón tay lên miệng.

- Nếu trẻ thở bằng miệng do mắc bệnh về đường hô hấp thì cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và điều trị triệt để.

- Chỉ cho trẻ cách xỉa răng khi thật cần thiết như khi bị thức ăn mắc vào răng… Nên dùng tăm có một đầu nhỏ vừa với kẽ răng và tương đối mềm để không gây tổn thương lợi hoặc sử dụng chỉ nha khoa để làm sạch răng.

- Những thói quen xấu khác như chống cằm, cắn móng tay, nghiến răng… thường xảy ra khi trẻ đã lớn hơn, cha mẹ có thể áp dụng những biện pháp nghiêm khắc nếu trẻ vẫn tái diễn.

- Cho trẻ khám và chăm sóc răng định kỳ sẽ giúp theo dõi chính xác tình trạng phát triển của răng, phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh về răng. Do đó, cha mẹ nên đưa trẻ đi khám răng ít nhất 4 tháng/1 lần, đừng chờ đến lúc trẻ bị sâu răng hay bị đau răng mới đưa đi khám.

Nguồn: Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Đồng Nai
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên