Phóng to |
Cơ chế bệnh sinh là do tăng sản quá mức các sụn sườn trong quá trình phát triển của trẻ, đẩy xương ức lõm vào trong lồng ngực.
Nguyên nhân gây bệnh: chưa có bằng chứng về gen liên quan tới bệnh. Một vài nghiên cứu cho thấy có yếu tố gia đình (35% theo Andre Hebra, South Florida School of Medicine). Bệnh có thể gắn với dị tật khác: hội chứng Marfan. Tuy vậy trong 35 bệnh nhân ở VN đã phẫu thuật hoặc đã đăng ký tại khoa ngoại lồng ngực Bệnh viện Chợ Rẫy, không thấy có yếu tố gia đình (đều là trẻ duy nhất trong gia đình bị bệnh, ba mẹ, họ hàng không có ai bị cùng bệnh). Có một bệnh nhân có hội chứng Marfan.
Ở Hoa Kỳ, tỉ lệ mắc bệnh là 1/3.000-4.000 trẻ. VN chưa có thống kê.
Năm 1949, Mark Ravitch báo cáo kỹ thuật chỉnh sửa bằng cách lấy bỏ sụn sườn quá phát nhưng giữ lại màng sụn và cố định xương ức ở vị trí bình thường. Các sụn sườn sau đó sẽ phát triển theo các màng sụn để lại và tạo một khung mới giữ xương ức ở vị trí đã được chỉnh sửa và cố định. Sau đó, phẫu thuật được cải biên, dùng thêm một thanh đỡ bằng thép không gỉ để đỡ xương ức.
Trong gần 50 năm, phẫu thuật Ravitch (cải biên) là kỹ thuật duy nhất và chuẩn mực để sửa chữa dị dạng lõm ngực bẩm sinh. Tuy nhiên đây là phẫu thuật gây tàn phá, để lại sẹo lớn và một lồng ngực tuy không lõm nhưng cũng không đẹp.
Năm 1998, Donald Nuss giới thiệu phẫu thuật can thiệp tối thiểu, dùng một thanh kim loại luồn qua ngực để nâng phần ngực lõm lên. Thanh này được giữ trong cơ thể khoảng ba năm thì lấy ra, lúc đó lồng ngực giữ nguyên được hình dáng đã chỉnh sửa. Phẫu thuật này ngày càng được chấp nhận như một phương pháp thay thế kỹ thuật của Ravitch. Khi Nuss đưa ra phẫu thuật vào năm 1998, phẫu thuật chủ yếu dành cho nhi khoa và cũng chỉ dành cho loại lõm ngực cân đối - điểm lõm nhất nằm chính giữa xương ức và cân xứng hai bên ngực.
Bệnh viện Chợ Rẫy bắt đầu phẫu thuật bệnh lõm ngực bẩm sinh từ tháng 9-2007. Tới nay đã đi vào thường qui và đã phẫu thuật 22 ca. Theo dõi các ca mổ sau đó cho thấy không có tai biến, lồng ngực trở lại bình thường, các cháu và gia đình đều hài lòng với hình hài của bộ ngực mới. Chỉ có 1/20 ca có di lệch thanh, tuy nhiên mức độ di lệch vừa phải (30O) và vẫn đủ đỡ xương ức về vị trí bình thường.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận