09/07/2007 18:55 GMT+7

Gợi ý giải đề thi môn Văn khối D, đợt 2-2007

TRẦN HỒNG ĐƯƠNG - ĐINH PHAN CẨM VÂN (Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa và Luyện thi Đại học Vĩnh Viễn TP.HCM)
TRẦN HỒNG ĐƯƠNG - ĐINH PHAN CẨM VÂN (Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa và Luyện thi Đại học Vĩnh Viễn TP.HCM)

TTO - Tuổi Trẻ Online gửi đến các bạn thí sinh phần gợi ý giải đề thi môn Văn khối D, kỳ tuyển sinh ĐH 2007, diễn ra vào sáng nay (9-7-2007). Những gợi ý này chỉ có tính chất tham khảo.

lO7FeIud.jpgPhóng to
Thí sinh làm bài trong kỳ thi tuyển sinh ĐH 2007 - Ảnh: Hoàng Hà
TTO - Tuổi Trẻ Online gửi đến các bạn thí sinh phần gợi ý giải đề thi môn Văn khối D, kỳ tuyển sinh ĐH 2007, diễn ra vào sáng nay (9-7-2007). Những gợi ý này chỉ có tính chất tham khảo.

Đáp án chính thức của Bộ GĐ-ĐT sẽ được Tuổi Trẻ Online cập nhật ngay sau khi kết thúc môn cuối cùng của đợt 2 vào các khối B, C, D năm 2007.

ĐỀ THI TUYỂN SINH MÔN VĂN KHỐI D NĂM 2007

PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC THÍ SINH

Câu I: (2 điểm)

Anh/chị hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.

Câu II: (5 điểm)

Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.

Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.

TRÀNG GIANG

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài H.C

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

(Văn học 11, Tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2005, tr.143)

PHẦN TỰ CHỌN (Thí sinh chỉ được chọn làm 1 trong 2 câu)

Câu III.a: Theo chương trình THPT không phân ban (3 điểm)

So sánh cách nhìn người nông dân của hai nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao.

Câu III.b: Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)

Phân tích những nét đẹp trong suy nghĩ và ứng xử của nhân vật Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải (đoạn trích trong Ngữ văn 12, sách giáo khoa thí điểm Ban KHXH và NV).

BÀI GIẢI GỢI Ý

PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH

Câu I: Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Học sinh trả lời đủ 2 ý:

Ý 1/ Hoàn cảnh ra đời: Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt trận Việt Minh lần lượt giành chính quyền trên tòan quốc.

- Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân.

- Ngày 26/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về đến Hà Nội, tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Người sọan bản Tuyên Ngôn Độc Lập.

- Ngày 2/9/1945, Người thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc tại quảng trường Ba Đình.

Ý 2/ Mục đích sáng tác: Người không những tuyên bố với đồng bào trong nước mà còn tuyên bố với thế giới, đối thoại với bọn đế quốc thực dân đang lăm le chiếm lại đất nước ta (phía Bắc có quân đội của Tưởng Giới Thạch, đằng sau là đế quốc Mỹ, phía Nam có quân đội Anh, đằng sau là viễn chinh Pháp).

- Người nêu cao chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đã mở ra một trang sử vẻ vang trong lịch sử đấu tranh kiên cường của dân tộc, chấm dứt hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến nước ta, khẳng định quyền độc lập tự do và nêu cao ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc ta.

Câu II. (5 điểm):

Yêu cầu chung: Thí sinh biết cách làm bài phân tích bài thơ để làm sáng tỏ vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bút pháp tác giả. Thí sinh có thể làm bằng nhiều cách, sau đây là vài gợi ý chính.

Yêu cầu cụ thể: Bài làm thể hiện những ý sau:

1. Vẻ đẹp cổ điển được:

- Đề tài và điểm nhìn cảnh vật: tả buổi chiều hoàng hôn trên sông dài rộng mênh mông, những gian bao quát toàn cảnh vật.

- Búp pháp miêu tả: lấy điểm tả diện: qua cảnh củi khô, bên cô liêu, cánh chim nhỏ để tả không gian bao la, hoang vắng.

- Cảm xúc: con người như thăng hoa, lẫn vào cảnh vật, vào không gian, thời gian. Mượn cảnh gợi tình, cảnh sông nước Tràng Giang của Huy Cận gợi nhớ đến cảnh sông nước Tràng Giang của thơ Đường trong Thơ Đỗ Phủ, Thôi Hiệu.

Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn tạo ra nhịp điệu thơ như trong thơ xưa.

2. Vẻ đẹp hiện đại:

Tuy vậy, Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932 - 1945.

- Bút pháp hiện đại thể hiện với những chi tiết, hình ảnh thơ cụ thể, sống sít đời thường, chân thực với cành củi khô, cồn cát, cánh bèo, cánh chim nhỏ. Nói chung là quá nhiều hình ảnh, chi tiết được đưa vào bài thơ dường như ngẫu nhiên, tình cờ, không theo trình tự không gian, thời gian.

- Tâm trạng thơ, là một cái tôi của thế hệ thanh niên sống trên đất nước bị thực dân Pháp thống trị, một cái tôi cô đơn, lạc lõng, vô định giữa không gian bao la, muốn hoà nhập nhưng bất lực, bế tắc.

- Càng nhớ nhà, nhớ quê hương vì vậy sâu nặng, phát xuất tự đáy lòng nhà thơ chứ không cần ngoại cảnh như trong thơ xưa.

3. Bài làm tham khảo

Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ - Đây là một hồn thơ buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến những cảnh mênh mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa. Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách vừa cổ điển vừa hiện đại.

1/Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, con sông trong thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ - Lửa thiêng)

2/ Khổ một: Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.

Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi lìa rừng không biết trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết mấy!

3/Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột ngột đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành cô liêu hơn:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

4/Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:

Mênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật...

Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước.

Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác, chia lìa.

5/Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời:

Chim hôm thoi thóp về rừng(Nguyễn Du)

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.(Bà Huyện Thanh Quan)

Chim mỏi về rừng tìm chốn trú(Hồ Chí Minh)

Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa như một tia nắng chiều rớt xuống.

Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường.

Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa thêm “khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.

6/Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã đi qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên sóng nước mênh mông, ở hình ảnh những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở một cánh chim chiều.

Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài Tràng giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ.

Còn “cái tôi Thơ mới”, tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh không thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy một niềm khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân loại - niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông nước Tràng giang.

PHẦN TỰ CHỌN (Thí sinh chỉ được chọn làm 1 trong 2 câu)

Câu III.a (3 điểm)

- Ta đã từng tiếp xúc với những Điền, những Hộ, với một Chí Phèo, một Lão Hạc của Nam Cao trong những sáng tác trước cách mạng! Ta đã bắt gặp được ở đó những người dân quê lam lũ nghèo nàn, sớm tối quần quật với cây cày lưỡi cuốc, bị biến chất bởi xã hội đen tối xấu xa. Ta đã nhìn thấy và thông cảm đớn đau cùng với nỗi bi kịch tinh thần đang chất chứa, xâu xé tâm hồn của những người trí thức nghèo trong xã hội. Những con người ấy dường như đã được tập hợp lại để trở thành một hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao!

- Sau cách mạng một thời gian, ta lại được tiếp xúc với những tác phẩm mới của ông. Ta ngỡ ngàng và thú vị trước một hình tượng nhân vật mới của Nam Cao! Đó là Hoàng và Độ trong Đôi mắt.

- Trong Đôi mắt, thông qua nhân vật Hoàng, Nam Cao đã nêu bật lên một vấn đề có ý nghĩa vĩnh cữu. Nó day dứt những người làm nghệ thuật. Bất kì một nhà văn nào mà lại không cần đến “đôi mắt” và cái nhìn đứng đắn để khám phá và sáng tạo thực tại. Nhưng, nếu có một “đôi mắt” như Hoàng thì không nên có và quả thực không cần phải có nhất là cho những người làm nghệ thuật!

Với đôi mắt ấy, Hoàng dường như đã bị “mù” trước thời đại. Những người kháng chiến trí thức nhập cuộc sẵn sàng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, hay như trong lời một bài hát “Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi, nào có sá chi đến ngày trở về. Ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết không lui”, nhưng với Hoàng, thì người nông dân, lực lượng chủ yếu của kháng chiến chỉ là một lũ “đần độn, lỗ mãng, ích kỉ tham lam, bần tiện cả”! Anh nhìn họ với đôi mắt “thiếu tình thương, thiếu trân trọng”.

Những gì mà anh nói với họ không phải là không có cơ sở, tuy nhiên nói theo Nam Cao là “chỉ nhìn thấy cái ngố bên ngoài mà không thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong”. Chính vì “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn”, nên nếu nhìn càng nhiều, càng quan sát lắm thì chỉ càng thêm”chua chát và chán nản”mà thôi. Hoàng nhìn cuộc kháng chiến một cách bi quan, dù có được một chút thán phục người lãnh tụ.

Nhưng nếu xét kĩ thì cái “chút xíu” tin tưởng ấy là xuất phát từ cái nhìn duy tâm, do sự sùng bái cá nhân. Chỉ thán phục có “ông cụ” như đã từng đắc ý với Tào Tháo. Hoàng đã thực sự sống xa rời quần chúng, chính vì vậy nên anh đánh giá không hết những khả năng của họ.

- Đối với Độ, một con người sống gần gũi, hòa nhập với sinh hoạt và gắn bó với quần chúng lao động thì lại bị Hoàng cho là “làm một anh tuyên truyền nhãi nhép”. Độ nhìn người nông dân với cái nhìn “người nông dân nước mình vẫn còn có thể làm cách mạng mà làm cách mạng thì hăng hái lắm, và can đảm lắm”, anh nhìn họ bằng cái nhìn đầy nâng niu và trìu mến khác hẳn với Hoàng là khinh khi miệt thị họ, phần đông họ “dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, chịu nhục một cách đáng thương”.

Hoàng không như Độ có thể cảm thông trước những tật xấu của người nông dân, để hiểu được họ và đánh giá đúng mức sự đóng góp của họ vào kháng chiến. Sống cuộc sống trưởng giả sang giàu nên Hoàng không thể từ bỏ nó để hòa mình vào bầu không khí chung của dân tộc. Anh đứng bên lề cuộc chiến, nhìn đời bằng đôi mắt thiển cận, thản nhiên với tình cảnh dầu sôi lửa bỏng, vô tình với cái vận mệnh đang “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước nhân dân.

Nhưng điều đáng nói ở đây là tình cảnh đất nước đang cần những người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, bao người đã và đang sẵn sàng giũ áo ra đi, sẵn sàng hi sinh và cống hiến bao xương máu, bao nhà văn đã tự nguyện lột xác để đến với nhân dân với dân tộc, với trách nhiệm công dân.

- Nam Cao đã xây dựng nên nhân vật Hoàng bằng một nghệ thuật vô cùng độc đáo. Hoàng “được” Nam Cao mổ xẻ về cái xấu cả nhân hình lẫn nhân tính. Ghét cay ghét đắng Hoàng lẫn cái “tuýp” người như Hoàng trong xã hội đương thời. Nam Cao đã rất thâm thuý khi đặt Hoàng ở bên cạnh con chó của anh ta

- Như vậy, từ vô số những “đôi mắt” ích kỉ, vô tâm như vậy ở ngoài đời, Nam Cao đã hệ thống lại để đưa vào tập trung mọi bản chất trong cùng một con người, chính vì vậy nên nhân vật Hoàng có giá trị điển hình rất cao.

- Xây dựng nhân vật bằng những nét điển hình độc đáo, bằng những chi tiết tả thực để từ đó có thể lột tả hết những bản chất sâu xa bên trong của mỗi con người. Đó chính là một thành công khá xuất sắc của Nam Cao – một nhà văn lớn của văn học Việt Nam.

Câu III.b (3 điểm)

1. Giới thiệu chung về tác phẩm, nhân vật :

- Truyện ngắn Một người Hà Nội là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Khải trong thời kỳ đổi mới, thể hiện cái nhìn nghệ thuật mới của nhà văn : nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và các thế hiện nối tiếp.

- Truyện là một phát hiện vẻ đẹp trong suy nghĩ và hành động của cô Hiền qua bao biển dông thăm trầm của đất nước, đó là một người giàu lòng tự trọng, thẳng thắn, thực tế, luôn có ý thức dạy con cháu sống sao cho đúng là người Hà Nội.

2. Nét đẹp trong suy nghĩ và hành động của nhân vật cô Hiền :

a. Nét đẹp trong suy nghĩ :

- Nét "chuẩn trong nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng, vì cô quan niệm rất rõ ràng :

+ Lòng tự trọng không cho phép sống tùy tiện, buông thả.

+ Lòng tự trọng không cho phép sống hèn nhát, ích kỉ.

+ Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng.

- Thẳng thắn :

+ Bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề (vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều …)

- Suy nghĩ của cô Hiền về cuộc sống rất thực tế :

+ Biết "nhìn xa trong rộng" (qua thái độ nghiêm túc, lựa chọn kĩ càng việc hôn nhân của mình, việc sinh con với mong muốn để dạy con vào đời bằng sự tự lập, vươn lên, nhìn nhận vai trò "nội trợ" của người phụ nữ…)

+ Không vồ vập, không lãng mạn, viễn vông với cuộc sống mới.

- Là người công dân có trách nhiệm với đất nước (hưởng ứng chủ trương xây dựng một xã hội nhân ái không có cảnh người bóc lột người của chính phủ nên không đồng ý cho chồng mua máy in và thuê thợ, đồng ý cho con đi bộ đội).

- Luôn tự hào về Hà Nội, người Hà Nội, văn hóa của Hà Nội (luôn nhắc nhở, dạy con cháu về cách sống của người Hà Nội qua từng cách ngồi, cách ăn, đi đứng, qua lời ăn tiếng nói).

b. Nét đẹp trong hành động :

- Tuy là người Hà Nội chính gốc, nhưng cô Hiền hòa đồng rất nhanh với cuộc sống mới không chỉ ở suy nghĩ mà còn ở những việc làm cụ thể của mình:

+ Cuộc sống còn khó khăn của giai đoạn đầu, nhưng cô đã nhanh chóng thích ứng bằng việc mở cửa hàng bán hoa do đích thân cô và các con làm và bán sản phẩm.

+ Với cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc, cô đã đồng ý để con ra trận với tâm trạng rất thật của người mẹ "Tao đau đớn mà bàng hoàng", rồi đến đứa con thứ hai cũng có ý nguyện như anh, cũng bày tỏ thái độ của mình "tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản". Đây là quyết định đúng đắn nhưng cũng rất khó khăn, đầy dũng cảm của cô Hiền - một người yêu nước.

c. Khái quát :

Qua suy nghĩ và việc làm của cô Hiền, ta thấy nổi lên hình ảnh một con người Hà Nội bình thường nhưng rất đáng trân trọng, nổi lên bản lĩnh một con người song hành cùng chặng đường dài, những biến động lớn lao của đất của đất nước, cô quả thật là "hạt bụi vàng" của Hà Nội, góp phần làm đẹp thêm bản sắc văn hóa chung của cộng đồng.

Nội dung trên đã được thể hiện khá rõ qua bút pháp xây dựng nhân vật, giọng điệu trần thuật của nhà văn Nguyễn Khải.

TRẦN HỒNG ĐƯƠNG - ĐINH PHAN CẨM VÂN (Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa và Luyện thi Đại học Vĩnh Viễn TP.HCM)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên