![]() |
Giống như Hàn Quốc, hòn đảo Đài Loan thời đó vẫn còn là một thuộc địa của Nhật. (Người Nhật đã trao trả lại hòn đảo cho người Trung Quốc sau khi quân đội Nhật Bản bị bại trận trong Chiến tranh Thế giới thứ II).
Cha của Thi Chấn Vinh là một người làm nhang được nể trọng. Năm 1947, ông lăn ra ốm vì một trận sốt cao tái phát và chết vào đầu năm sau. Thi Chấn Vinh lúc đó mới chỉ được 3 tuổi.
Theo một câu chuyện kể lại, khi người cha đang nằm trong tình trạng sốt cao nửa mê nửa tỉnh, ông đã hỏi mẹ của Thi Chấn Vinh, người có cái tên thường gọi là A Tú (tức Thi Trần Tú Liên), về những hi vọng của bà đối với cậu con trai. Rồi ông nói với vợ: “Tôi muốn nó trở thành một doanh nhân, một doanh nhân lớn, nổi tiếng khắp từ nam chí bắc, khắp cả Đài Loan!”.
A Tú phải tự mình bươn chải nuôi con. Bà mở một cửa hàng nhỏ bán đủ các loại mặt hàng, từ văn phòng phẩm, vé số, hạt dưa cho đến cả trứng vịt. Dù họ không giàu có (Thi Chấn Vinh nhớ lại rằng mình hầu như chưa bao giờ được đi giày) nhưng bà A Tú luôn đảm bảo chắc chắn con trai của mình có tiền tiêu vặt nhỉnh hơn một chút so với những đứa trẻ khác ở Lukang. Trong khi ở hầu hết các gia đình, bất kỳ một khoản thu nhập nào cũng phải chia năm xẻ bảy cho rất nhiều đứa con thì Thi Chấn Vinh cho biết ông “được hưởng 100% miếng bánh nhỏ bé”.
Ông học hỏi những bài học kinh doanh sơ đẳng từ người mẹ. Nhiều người buôn bán khác thời đó thường cân gian bán lận nhưng A Tú luôn chắc chắn đối xử ngay thẳng, thật thà với khách hàng của mình. Thi Chấn Vinh thuyết giáo: “Khi anh làm ăn kinh doanh, dù anh biết nhiều hơn khách hàng của mình nhưng anh vẫn nên thật thà”. Thi Chấn Vinh cũng nhặt được một vài mẹo kinh doanh mà sau này ông đã áp dụng vào doanh nghiệp sản xuất PC của mình.
Cậu bé Thi Chấn Vinh chú ý thấy trứng vịt là thứ đem lại lợi nhuận nhiều nhất dù lãi trên mỗi đơn vị ít hơn so với mặt hàng chủ chốt khác của mẹ mình là văn phòng phẩm. Những quả trứng vịt dễ hư hỏng được bán nhiều hơn và nhanh hơn văn phòng phẩm. Thi Chấn Vinh sau này cũng nhận ra bản chất “dễ hỏng” của công nghệ vi tính cũng như tính cần thiết phải đưa những chiếc máy mới tới các quầy hàng và tới tay người tiêu dùng với một tốc độ rất nhanh.
Trong quá trình tìm cách xây dựng công ty Acer, Thi Chấn Vinh mong muốn có tất cả sự chịu đựng ngoan cường như của mẹ mình. Ngay từ những ngày đầu của công ty, Thi Chấn Vinh đã đặt ra nhiều mục tiêu tham vọng hơn nhiều doanh nhân Đài Loan đồng hội đồng thuyền khác của ông. Ông muốn thiết kế và sản xuất những sản phẩm riêng của mình với thương hiệu của chính mình.
Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp khác, giống như Trường Giang Thực Nghiệp của Lý Gia Thành, chỉ nhận đơn đặt hàng từ các công ty Mỹ và sản xuất ra hàng hóa mà chẳng được ai biết đến tên tuổi. Tuy nhiên, lúc mới khởi đầu, công ty Acer non trẻ của Thi Chấn Vinh chẳng có tiền để mà sản xuất được bất kỳ thứ gì. Thay vào đó, Acer nhận phân phối bộ vi xử lý của công ty sản xuất con chip Mỹ ZiLOG tại Đài Loan.
Để xây dựng một thị trường, bắt đầu vào năm 1978, Thi Chấn Vinh thành lập nhiều trung tâm đào tạo, nơi các kỹ sư có thể tổ chức một hội thảo kéo dài 50 giờ đồng hồ bàn về vấn đề làm cách nào ứng dụng bộ vi xử lý vào việc điều khiển tất cả mọi thứ, từ đèn tín hiệu giao thông cho đến máy móc. Trong vòng 4 năm, các trung tâm của Thi Chấn Vinh đã đào tạo khoảng 3.000 chuyên gia Đài Loan trong lĩnh vực công nghệ mới này.
Quan trọng nhất là nhóm các nhà nghiên cứu của Thi Chấn Vinh đã thu được kinh nghiệm rất lớn trong phát triển sản phẩm. Thi Chấn Vinh biến Acer thành một phòng thí nghiệm Nghiên cứu và Phát triển (R&D) chuyên tập trung vào việc tạo ra những sản phẩm điện tử dựa trên công nghệ bộ vi xử lý để các công ty kỹ thuật lớn hơn của Đài Loan bán ra thị trường. Nhóm nhân viên R&D “làm việc cần cù ngày đêm… với nguồn lực rất hạn chế", Thi Chấn Vinh nhớ lại.
“Khi không có đủ tua vít, họ dùng đồng tiền xu để thay thế; khi kìm gãy, họ lấy răng mình thay thế”. Nhóm đã đạt được một số thành công. Trong đó, thành công lớn nhất là phát triển được thiết bị cuối của máy tính bóng điện tử đầu tiên tại Đài Loan.
Đến năm 1980, những thương vụ này đã đem lại đủ tiền cho Thi Chấn Vinh giới thiệu ra thị trường những phát minh của riêng ông. Mặt hàng đầu tiên được tung ra là chiếc máy vi tính Trung Quốc Con rồng siêu phàm (Heavenly Dragon Chinese computer). Thi Chấn Vinh lấy một chiếc máy vi tính bình thường và cài một cái bo mạch điện tử do Acer phát triển để tạo điều kiện cho một người nói tiếng Trung Quốc nhập thông tin bằng chữ Trung Quốc.
Thời đó, máy vi tính chủ yếu chạy bằng tiếng Anh, gây ra một rào cản tâm lý ngại dùng máy rất lớn đối với hầu hết người dân Trung Quốc. Các hệ thống tương tự được phát minh trước đó có khả năng ứng dụng rất hạn chế vì nó không chạy được phần mềm đã có sẵn. Vấn đề khó khăn đặt ra đối với việc phát triển một hệ thống tiếng Trung có khả năng ứng dụng được trên bất kỳ máy vi tính nào nằm ở chỗ các ký tự Hán ngữ rất phức tạp, chiếm quá nhiều bộ nhớ đến nỗi sản xuất không có lời.
Nhờ vào sự giúp đỡ của một nhà khoa học vi tính, nhóm R&D của Thi Chấn Vinh đã vượt qua được những trở ngại này. Sản phẩm của Acer có thể chạy được phần mềm tiếng Anh nhưng vẫn cho phép người dùng tương tác với máy tính bằng các ký tự Hán ngữ. Nhờ đó, lần đầu tiên, người sử dụng Hán ngữ đã tiếp cận được một cách rộng rãi phần mềm sẵn có.
Tuy nhiên, thành công đột phá lớn của Thi Chấn Vinh không phải là phát minh nói trên mà xuất hiện sau đó một năm, khi công ty của ông thiết kế và sản xuất ra chiếc máy tính mini mang tên Microprofessor của riêng mình. Chiếc máy xách tay này có thể chơi những trò chơi đơn giản và xử lý văn bản đơn giản. Các thế hệ sinh ra sau đã cạnh tranh với dòng máy nổi tiếng Apple Ile.
Thành công ngay lập tức, chiếc Microprofessor đã đem lại cho Thi Chấn Vinh doanh thu bán hàng quốc tế lớn đầu tiên. Được quảng cáo là máy vi tính “giải trí/giáo dục”, nó đã trở thành một trong những chiếc máy đầu tiên hấp dẫn được thị trường nội địa. Acer kiêu hãnh khẳng định Microprofessor là một chiếc máy vi tính mà ai cũng có thể dùng, từ trẻ em 7 tuổi cho đến người già 70 tuổi”.
Vào thời điểm này, sự ủng hộ của chính quyền Đài Loan trở nên quyết định đối với Acer. Lý Quốc Đỉnh và nhóm các nhà kỹ trị đồng nghiệp của ông đã bận rộn nghĩ ra đủ mọi cách để giúp các doanh nhân của hòn đảo. Ngay từ đầu, các nhà kỹ trị đã gắn kết nỗ lực của mình với nhu cầu của các doanh nhân đang cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Năm 1978, Lý Quốc Đỉnh nói: “Tôi cho rằng không ngành công nghệ nào có thể tồn tại được nếu sản phẩm của nó không có một thị trường đủ lớn để hậu thuẫn cho chính bản thân nó”.
Một trong số những đóng góp quan trọng nhất của chính quyền Đài Loan là việc thành lập Viện nghiên cứu kỹ thuật công nghiệp (ITRI) vào năm 1973. Điểm nổi bật của cơ quan nghiên cứu này là ở chỗ nó không phải là một nhóm chuyên gia cố vấn hàn lâm mà là một tập hợp các kỹ sư chú trọng vào việc đem lại cho Đài Loan những công nghệ mới có khả năng ứng dụng vào các sản phẩm xuất khẩu. Phần lớn công nghệ mà ITRI nghiên cứu được cấp giấy phép hay nhập khẩu từ các công ty Mỹ và sau đó được phổ biến tới khu vực tư nhân ở Đài Loan.
Một đóng góp lớn khác của chính quyền sở tại là Khu công nghiệp công nghệ cao Tân Trúc được Lý Quốc Đỉnh ủng hộ và được mở vào năm 1980. Là một sản phẩm mở rộng từ khái niệm EPZ, khu công nghiệp Tân Trúc khuyến khích các công ty kỹ thuật bằng những chính sách ưu đãi (chẳng hạn như đất giá rẻ) và “lồng ấp doanh nghiệp”.
Chính quyền Đài Loan hi vọng nhờ vào sự tập trung nhiều công ty kỹ thuật ở cùng một chỗ như vậy, các nhà quản lý và các kỹ sư có thể học hỏi qua lại lẫn nhau, giống như những gì đã và đang xảy ra tại Thung lũng Silicon.
Các nhà kỹ trị và doanh nhân Đài Loan đã chuyển hướng thành công nền kinh tế tới những sản phẩm công nghệ cao hơn <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> | |||||
% SẢN XUẤT CỦA TỪNG LĨNH VỰC | |||||
1951 |
1961 |
1971 |
1981 |
1991 | |
Lương thực |
29 |
25 |
11 |
10 |
8 |
Dệt sợi |
15 |
11 |
12 |
9 |
7 |
Trang thiết bị điện tử |
0,6 |
2 |
10 |
11 |
16 |
Nguồn: Jomo, K.S. Cạnh tranh sản xuất tại châu Á
Ngoài Lý Quốc Đỉnh, thời đó còn có một nhà hoạch định chính sách khác đóng vai trò vô giá là Tôn Vận Toàn, lãnh đạo cơ quan kinh tế trực thuộc Viện Hành chính Đài Loan và sau đó là viện trưởng viện này từ năm 1969 đến năm 1984. Là một kỹ sư, Tôn Vận Toàn lần đầu tiên nổi tiếng vào giữa những năm 40 với thành tích sửa chữa các nhà máy điện của Đài Loan bị trúng bom trong Chiến tranh Thế giới thứ II chỉ trong vòng 3 tháng.
Ông tuyển nhiều sinh viên đại học chưa có kinh nghiệm làm nhân viên và lấy những bộ phận cũ của máy móc bị hư để sửa chữa, chắp nối với nhau thành những máy phát điện hoạt động được. Ấn tượng trước Tôn Vận Toàn, Ngân hàng Thế giới đã tuyển ông sang điều hành một công ty điện lực của Nigeria vào giữa thập niên 60. Tại Đài Loan, ông là người đã bảo vệ cho việc xây dựng ITRI và cố gắng thúc đẩy đến cùng việc đầu tư ban đầu vào nghiên cứu và sản xuất chất bán dẫn.
Tôn Vận Toàn có lần nói: “Người có thể làm được mọi thứ tại lãnh thổ của tôi chính là toàn thể nhân dân của tôi”. Dù giữ chức vụ với nhiều trọng trách to lớn nhưng Tôn Vận Toàn vẫn là kiểu đàn ông kín đáo của gia đình. Joseph, con trai của Tôn Vận Toàn cho biết mỗi tối, ông thường theo dõi những phim truyền hình nhiều tập cùng với gia đình trước khi về giường nghỉ cùng với một đống tài liệu “để tìm lời giải đáp cho ý tưởng hệ trọng của ông”.
Tôn Vận Toàn cố tách bạch công việc và đời sống gia đình càng nhiều càng tốt. Những câu hỏi quanh bàn ăn tối về chính sách kinh tế thường bị ông khéo léo né tránh trả lời. “Có thể đọc nó trên báo vào ngày mai mà”, ông đáp.
Thi Chấn Vinh tận dụng tối đa những chính sách thân thiện với công nghệ của Tôn Vận Toàn và Lý Quốc Đỉnh. Không lâu sau khi khu công nghiệp Tân Trúc được thành lập, Thi Chấn Vinh mở nhà máy đầu tiên của mình tại đây. Đó là một công trình chẳng có gì bề thế, một tòa nhà 2 tầng do giới chức khu công nghiệp xây dựng trên một diện tích khoảng 3.345m2.
Trong một diện tích chật hẹp như vậy, Thi Chấn Vinh không thể làm gì hơn được ngoài việc xếp các bàn làm việc nối vào nhau như một dây chuyền sản xuất. Thi Chấn Vinh đã sản xuất những chiếc máy vi tính Microprofessor của mình tại nhà máy này.
Nhà máy không giữ ở quy mô nhỏ như vậy lâu vì nhờ có tài năng đoán trước tương lai của Thi Chấn Vinh và sự giúp đỡ rất lớn từ ITRI. Năm 1982, Thi Chấn Vinh trở về từ Comdex – triển lãm của các công ty kinh doanh máy tính – ở Las Vegas với một nhận thức mới rằng Acer phải vươn lên dẫn đầu theo một hướng đi hoàn toàn khác. Tại triển lãm, có một chiếc máy vi tính thu hút sự chú ý đặc biệt của mọi người, đặc biệt là của Thi Chấn Vinh. Đó là chiếc máy vi tính IBM đầu tiên có khả năng tương thích đầy đủ do Compaq giới thiệu.
Thi Chấn Vinh nghĩ chiếc máy vi tính đó đã chỉ ra một sự thay đổi trong toàn bộ ngành này. Một rừng các sản phẩm máy vi tính cạnh tranh nhau làm hoa mắt người dùng, từ Wang Labs, Digital Equipment, Hewlett-Packard và nhiều hãng khác đã có mặt trên thị trường. Không có chiếc máy nào trong số này tương thích với nhau hay tương thích với Microprofessor của Acer.
Thi Chấn Vinh nhận thấy tình hình này không thể tiếp tục. Khi máy vi tính ngày càng trở nên được sử dụng rộng rãi hơn thì ngành công nghệ này cũng sẽ phải tiến tới một tiêu chuẩn chung. Thi Chấn Vinh nói: “Điều này làm cho tôi sáng ra rất nhiều rằng sự tương thích giữa các máy vi tính là rất quan trọng”. Ông quyết tâm cũng sẽ làm ra những chiếc máy IBM tương thích.
Quyết định của Thi Chấn Vinh là một thay đổi đầy rủi ro nguy hiểm đối với một công ty đã dồn sức thiết kế sản phẩm của riêng mình. Ông bắt đầu với một sự thận trọng. Một phiên bản mới của Microprocessor đang được phát triển và thay vì bỏ hẳn nó, Thi Chấn Vinh lại chọn vừa sản xuất chiếc máy này vừa theo đuổi chiếc máy IBM tương thích. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Thi Chấn Vinh lại có quá ít người, không thể hoàn thành 2 nhiệm vụ cùng một lúc. Bất kỳ nỗ lực nào sản xuất PC IBM tương thích cũng cần phải hoãn lại.
Thi Chấn Vinh đã có một bước đi khác thường. Ông trả 375.000 USD thuê IRTI phát triển máy IBM tương thích cho mình. IRTI đã sẵn sàng cho ra đời một chiếc máy đầu tiên trong vòng 1 năm. Bất chấp nhiều khó khăn do sự can thiệp của chính quyền gây ra (các nhà hoạch định chính sách hay can thiệp của Đài Loan khăng khăng đòi Thi Chấn Vinh phải chia sẻ công nghệ mới này cho các công ty khác trong ngành), Acer vẫn đưa được chiếc PC IBM tương thích đầu tiên của mình ra thị trường vào cuối năm 1983.
Sự kiện này đã đặt Thi Chấn Vinh vào con đường trở thành một nhân vật chủ chốt trong ngành vi tính. Trong hai năm tiếp theo, doanh thu của Acer đã tăng hơn gấp 3 lần, đạt 165 triệu USD. Nhưng bao nhiêu đó vẫn chưa đủ đối với Thi Chấn Vinh. Vào giữa thập niên 80, Acer vẫn chỉ là một trong nhiều nhà sản xuất máy vi tính IBM tương thích vốn thường bị gọi là “những kẻ sao chép vô tính”.
Các công ty Mỹ, Hàn Quốc và thậm chí là các công ty Đài Loan khác đang cho ra lò hàng loạt chiếc máy như vậy. Nhiều công ty trong số “những kẻ sao chép vô tính”, đặc biệt là những công ty tại Đài Loan, bị mang tiếng khốn khổ là đã xé toạc các mẫu thiết kế IBM và sản xuất ra những sản phẩm máy tính nhái tại các lò làm bánh bao.
Hình ảnh đáng thương hại này về các công ty làm xáo động tâm can Thi Chấn Vinh, người đã tuyên bố cảm thấy “có trách nhiệm cá nhân phải thay đổi cách nhìn nhận đó”. Bằng cách này hay cách khác, Acer phải tự làm cho mình khác biệt.
Cách tốt nhất, theo Thi Chấn Vinh, là đi nhanh hơn những “kẻ sao chép vô tính” khác về mặt công nghệ. Bằng cách đó, Acer có thể bán sản phẩm của riêng mình tại các thị trường chủ chốt như Mỹ với một vị thế ngang bằng với các thương hiệu của Mỹ. “Chúng tôi muốn chuyển từ vị trí ở ngoài rìa vào vị trí hạt nhân trung tâm,” Thi Chấn Vinh phát biểu vào năm 1987.
“Chúng tôi muốn sử dụng cơ cấu chi phí Đài Loan nhưng cho ra những sản phẩm, dịch vụ và tạo ra những hình ảnh hạng nhất quốc tế. Chúng tôi muốn trở thành một công ty đa quốc gia có nguồn gốc Đài Loan”.
Thi Chấn Vinh hóa ra lại có lợi thế. Năm 1984, ông đã đầu tư 1 triệu USD để khởi dựng một công ty nghiên cứu nhỏ tên là Suntek tại Thung lũng Silicon với mục đích để nghiên cứu những công nghệ vi tính mới tại Mỹ.
Một năm sau, ông cử một nhóm R&D từ Đài Bắc đến Suntek để bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu về một con chip tiên tiến của Intel, con chip 38661 vốn đóng vai trò là nền tảng để sản xuất ra một chiếc PC chạy nhanh hơn đáng kể so với máy vi tính của Acer hay của bất kỳ một hãng nào khác vào thời đó. Các nhà nghiên cứu quay trở về Đài Bắc và đảm trách một nhiệm vụ chán ngắt là ráp từng con chip riêng lẻ thành một bộ mạch dùng cho một chiếc máy vi tính đời 386.
Và đến năm 1986, Thi Chấn Vinh đã đạt được một thành công đột phá lớn nhất từ trước đến nay của mình. Acer trở thành nhà sản xuất máy tính thứ 2 trên thế giới làm ra được một PC với con chip 386, chỉ đứng sau gã khổng lồ trong ngành này là Compaq. Acer thậm chí còn đánh bại cả IBM, gã khổng lồ vốn vẫn chưa hết kinh ngạc. Thi Chấn Vinh cho rằng đó là bước ngoặt quan trọng nhất của Acer. Ông nói: “Bắt kịp Mỹ trong công nghệ luôn luôn là mục tiêu của tôi.”
Các đơn đặt hàng chiếc máy mới của Acer bắt đầu nhanh chóng ào ạt đổ sang từ Mỹ, nhanh đến nỗi Acer thật sự không đáp ứng xuể. Đặc biệt có một đơn hàng lớn từ công ty Unisys của Mỹ. Để đáp ứng được đơn hàng này, Thi Chấn Vinh cần phải mở rộng các nhà xưởng của mình. Một lần nữa, Lý Quốc Đỉnh đã đến giải cứu. Lý Quốc Đỉnh và Thi Chấn Vinh đã gặp nhau trước đây trong một hội chợ điện tử diễn ra không lâu sau khi Acer thành lập. Lý Quốc Đỉnh luôn để mắt đến sự tiến bộ của Thi Chấn Vinh.
Khi đơn đặt hàng của Unisys đến, Thi Chấn Vinh đã gọi điện thoại cho Lý Quốc Đỉnh nhờ giúp đỡ. Lý Quốc Đỉnh thực hiện nhiều cuộc điện thoại, gọi đến các chủ tịch ngân hàng ở Đài Bắc và thúc giục họ cho Thi Chấn Vinh vay tiền. Không có gì đáng ngạc nhiên, các khoản vay đã được hiện thực hóa.
Thi Chấn Vinh xây dựng cơ sở sản xuất mới còn Unisys có được những chiếc PC của mình. Unisys quá ấn tượng đến nỗi quyết định mua lại bản quyền công nghệ 386 của Acer. Lần đầu tiên có một công ty Mỹ hoàn tất một thỏa thuận kiểu như vậy với một công ty Đài Loan.
Thi Chấn Vinh cho biết chiếc PC 386 của ông đã “phá vỡ quan niệm cho rằng Acer chỉ là kẻ theo sau IBM”. Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày Thi Chấn Vinh và nhóm nhân viên ít ỏi phải chen chúc nhau làm việc trong văn phòng chật hẹp của họ, Acer đã bắt kịp những công ty hùng mạnh nhất trong ngành công nghệ vi tính. Đài Loan có thể chính đáng tuyên bố mình là một đối thủ cạnh tranh thật sự trong lĩnh vực công nghệ. Đến năm 1988, cứ mỗi 20 giây Acer lại cho ra lò một PC.
Một nửa trong số chúng mang thương hiệu Acer, số còn lại là sản xuất cho những công ty lớn như Philips, Siemens và Canon để bán ra dưới nhãn hiệu của họ. Acer được ví là “một kho báu quốc gia” còn Thi Chấn Vinh là “Steve Jobs của Đài Loan”. Thi Chấn Vinh, người tiếp tục đổ tiền vào R&D, thậm chí còn hứa hẹn nhiều kỳ tích lớn hơn. Năm 1988, ông trả lời phỏng vấn của tờ TheNew York Times rằng “đây mới chỉ là sự khởi đầu”.
Các nhà kỹ trị Đài Loan cũng nhất trí (với Thi Chấn Vinh). Lý Quốc Đỉnh và người của ông muốn thúc đẩy Đài Loan tiến lên nấc thang công nghệ cao hơn.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận