Luật AI đầu tiên của Việt Nam đang được thẩm định và đây là những điều bạn cần biết
Bộ Tư pháp đang thẩm định Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (AI), trong đó đề xuất cấm phát triển các hệ thống AI thao túng nhận thức, hành vi con người có chủ đích và đề xuất phân loại AI theo 4 mức độ rủi ro để có cơ chế quản lý.
Theo đó, Dự thảo Luật quy định mọi hoạt động liên quan đến hệ thống trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam phải tuân thủ 7 nguyên tắc cơ bản gồm:
- Lấy con người làm trung tâm (nhân văn)
- Bảo đảm an toàn, công bằng, minh bạch và trách nhiệm
- Bảo đảm tự chủ quốc gia và hội nhập quốc tế
- Phát triển bao trùm và bền vững
- Bảo đảm sự cân bằng và hài hòa trong xây dựng và thực thi chính sách
- Quản lý dựa trên rủi ro
- Thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Đề xuất phân loại trí tuệ nhân tạo theo 4 mức
Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất phân loại AI theo 4 mức độ rủi ro bao gồm:
1. Mức độ rủi ro không chấp nhận được
Các hệ thống trí tuệ nhân tạo có mục đích sử dụng gây tổn hại đến an ninh quốc gia, các giá trị xã hội và quyền con người, bị cấm theo quy định tại Điều 11 của Luật này.
2. Mức độ rủi ro cao
Các hệ thống trí tuệ nhân tạo được sử dụng trong các lĩnh vực hoặc cho các mục đích có khả năng gây tổn hại đáng kể đến tính mạng, sức khỏe, các quyền cơ bản của con người, an ninh, trật tự và các lợi ích công cộng quan trọng khác.
3. Mức độ rủi ro trung bình
Các hệ thống trí tuệ nhân tạo có tương tác trực tiếp với con người hoặc tạo ra nội dung mà người sử dụng cần được biết về bản chất nhân tạo của nó.
4. Mức độ rủi ro thấp
Các hệ thống trí tuệ nhân tạo không thuộc các trường hợp quy định thuộc ba nhóm trên.
Các trường hợp hệ thống trí tuệ nhân tạo bị cấm: Điều 11 của Dự thảo Luật này có quy định về việc nghiêm cấm việc nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo trong các trường hợp sau đây
1. Thao túng nhận thức, hành vi của con người một cách có chủ đích nhằm làm mất khả năng tự chủ, ra quyết định, dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến tổn hại về thể chất hoặc tinh thần.
2. Lợi dụng các điểm yếu của một nhóm người cụ thể liên quan đến tuổi tác, khuyết tật hoặc hoàn cảnh kinh tế, xã hội để tác động đến hành vi của họ.
3. Chấm điểm tín nhiệm xã hội đối với cá nhân trên phạm vi rộng bởi cơ quan nhà nước, dẫn đến sự đối xử bất lợi hoặc không công bằng trong các bối cảnh xã hội không liên quan.
4. Sử dụng hệ thống nhận dạng sinh trắc học từ xa theo thời gian thực tại các địa điểm công cộng cho mục đích thực thi pháp luật, trừ các trường hợp đặc biệt do luật chuyên ngành quy định nhằm phòng, chống tội phạm nghiêm trọng và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo một trình tự đặc biệt.
5. Xây dựng hoặc khai thác cơ sở dữ liệu nhận dạng khuôn mặt quy mô lớn thông qua việc thu thập hình ảnh một cách tràn lan, không có chủ đích từ internet hoặc camera giám sát.
6. Sử dụng hệ thống nhận diện cảm xúc tại nơi làm việc và các cơ sở giáo dục, trừ trường hợp luật chuyên ngành cho phép vì lý do y tế hoặc an toàn với các điều kiện nghiêm ngặt.
7. Sản xuất hoặc phổ biến nội dung giả mạo và các nội dung khác do trí tuệ nhân tạo tạo ra có khả năng gây nguy hại nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc gia.
8. Phát triển hoặc sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
9. Các trường hợp khác do Chính phủ quy định sau khi có ý kiến của các cơ quan liên quan và thực hiện tham vấn công khai.
Xem thêm: Bộ Khoa học và Công nghệ cùng Bộ Công an vào cuộc xử lý SIM 'chính chủ ảo'
Xem thêm: Bảo hiểm xã hội TP.HCM giải đáp: Có nên chuyển đăng ký BHYT từ bệnh viện nhỏ sang bệnh viện lớn?
Xem thêm: Không nộp phạt nguội vi phạm giao thông, tiền sẽ trừ vào lương, tài khoản ngân hàng?
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận