15/12/2010 11:25 GMT+7

Thưa Mẹ, phía trăng lên

LÊ ANH DŨNG (Ngày 27-7-2002 - trường ca, Nhà xuất bản QĐND 2003)
LÊ ANH DŨNG (Ngày 27-7-2002 - trường ca, Nhà xuất bản QĐND 2003)

TTO - Nhà thơ, đại tá Lê Anh Dũng - người đã đưa hình ảnh Mẹ Thứ từ đời thường vào các tác phẩm thi ca của mình rất thành công - đã gửi cho Tuổi Trẻ Online một số bài thơ trích trong các trường ca đã được xuất bản cùng với một bài thơ vừa viết ngày 11-12 sau khi nghe tin mẹ Thứ đã qua đời.

Xg3MvKDi.jpgPhóng to
Ảnh phác họa tượng đài mẹ Nguyễn Thị Thứ của tác giả Đinh Gia Thắng - Ảnh Đăng Nam

<?xml:namespace prefix = o />

Thưa Mẹ, phía trăng lên

1.

* Tin bài liên quan:

Mẹ Thứ về với đấtTiễn đưa mẹ Thứ về với đất trờiCả nước về bên mẹ ThứMẹ giúp con biết mình chưa làm được gì”Mẹ Thứ đã qua đờiMẹ Thứ ơi, Mẹ là Tổ quốcNgười mẹ chín lần tiễn con đi không còn nữaMẹ ơi, dẫu biết lá vàng lá rụng…

Một bàn thờ

Mười một bát hương

Mười một bằng Tổ quốc ghi công

Trĩu trên đầu mẹ

Chõng tre

Đêm hè

Mẹ nằm yên

Lặng nghe

Kẽo kẹt cửa

Ai như tiếng các con về

Ngọn gió hờ

Đùa mẹ suốt năm canh

Trên thế giới xưa nay

Bao cuộc chiến tranh

Có người mẹ nào như mẹ?

Chín con đẻ

Một con rể

Hai cháu ngoại

Lần lượt lên đường cầm súng

Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh

Các con mẹ

Tự Xiến, Hàn Anh, Hàn Em, Tự Lem

Hy sinh thời đánh Tây

Tự Chuyển, Tự Nự, Tự Cẩn, Tự Thịnh, Tự Trịnh

Hy sinh thời đánh Mỹ

Tự Chuyển con trai đầu

Ngả xuống lúc chín giờ ba mươi, tháng tư, năm bảy lăm

Hai Trị-chị cả

Bám trụ nuôi quân

Mỹ bắn gãy chân, ngồi tù

Trước gánh tang chồng

Sau gánh tang con

Một nhà đông, cao núi non

Chỉ còn hai bà mẹ góa

Người mù bám người què

Khuya sớm nương nhau

Ông Ba Trị-nhà mẹ

Thời trẻ khỏe như trâu cày

Ở đợ, làm thuê khắp làng ruộng cạn bàu Đưng

Tuổi ngoài tám mươi

Ruộng nếp hương cao quá đầu

Vẫn trùng trục nắng mưa

Quanh năm một thứ ăn kho mặn

Tất tần tật của ngon

Nhường hết “anh em đằng mình”

Nhớ ngày đi nhận huân chương

Ông chỉ cười khấc khấc:

Công cán nhà mình

Bằng cái móng tay..

2.

Xưa, nơi chợ Vải sông Thanh

Làng Thanh Quýt

Có cô dệt vải xóm Chay

Phải lòng anh nông dân Ba Trị xóm Rừng

Muối mặn gừng cay

Vợ chồng bình dị

Như đất cát pha

Áo nâu, vải ta

Những đứa con

Bù lăn bù lóc

Theo xóm theo làng

Xóm Rừng ít ruộng nhiều màu

Nhà mẹ đông con

Khoai chạc khoai chìu sắn lát cõng cơm

Mẹ mớm, mẹ đơm hết nồi hết trả

Ngọn dền ngọn lang

Mắm dưa mắm cái

Vợ chồng cắc ca cắc củm dụm dành

Mua ruộng nuôi con

Đồng quê yên lành

Bỗng đùng đoàng Trảng Nhật, Giáp Năm

Pháo dập, pháo dồn xóm Trên, xóm Dưới

Xóm Rừng, xóm Chay máu loang nhà đổ

Giặc đến nhà đàn bà…khổ nhất

ứng vào đời mẹ gian nan?

Hố hụi hò khoan

Từ đống tro tàn

Mẹ mài dao phay, mẹ vung đòn gánh

Còn bụi chuối sau hè

Là còn sống mái tử sinh!

Hố hụi hò khoan

Con ơi con théc cho muồi

Để mẹ gánh nước tưới vồng khoai lang

Để mẹ trồng bí lợp giàn

Giúp anh vệ quốc đánh tan giặc thù

Hết đảm phụ mẹ đi dân công

Hết cơm lo cháo, hết mì lo khoai..

3.

Tưởng rằng nạn khỏi tai qua

Hết giặc Tây đến giặc Mỹ muốn “ làm cha” nước mình

Làng mẹ vào cuộc đấu tranh

Mỹ trên ngụy dưới rập rình đạn bom

Xe cày mồ mả ruộng vườn

Ly khai tố Cộng

Khu dồn “ kiến thiết” thép gai

Có ai biết, ai ngờ

Dưới bờ tre, chuồng heo nhà mẹ

Những hầm bí mật

Trong vườn hoang buồng kín

Hầm dài nuôi giấu thương binh

Nửa đêm tim thót giật mình

Tiếng giày đinh, tiếng rập rình nguy nan

Ngọn đèn hột vịt

Tắt-đỏ đêm đêm bạc trắng mái đầu

Cho “anh em đằng mình” đi lọc lách ngang

Cho cán bộ họp bàn phương án

Cờ Mặt trận, cờ búa liềm, truyền đơn cách mạng

Từ những căn hầm của mẹ bật lên

Bật lên Tiếng hô xung phong

Bật lên rùng rùng trận đánh

Trả thù anh Trỗi, anh Hưng

Thủy Bồ, Hà My, chợ Được

Uất ức căm hờn

Điện Thắng, Điện Bàn đất mẹ sục sôi bom đạn

Cái thời HU1A bắn dạo

Mỹ lếch, ngụy càn chà đi xát lại

Cái thời “đằng mình”

Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng

Cái thời giặc săn lùng, đốt nhà, xăm hầm

Mẹ vẫn ung dung nhai trầu

Giả vờ mắng chó đuổi gà

Giả vờ mời mía, mời trà

Đánh lừa bọn địch gian manh

Chiến tranh bom đạn không chừa

Mồ mả ông bà, đình làng miếu xóm

Mẹ dạy con:

Đói lòng ăn một quả sung

Còn hơn ở trại tập trung An Hòa

Ta về ta ở nhà ta

Ôm cây cột cháy cũng là danh thơm

4.

Gia tài mẹ

Chiếc rương gỗ-của hồi môn

Đựng giấy tờ, áo dài khăn đóng

Khi đằng mình về, bỗng hóa ngách ngăn

Vải vóc, thuốc men, tương cà gạo muối…

Mẹ nói có chi đâu nhiều

Của để, của dành cho hết “anh em”

Giặc đến khám rương

Mẹ bảo tích trữ phòng cơ cho ngày mưa lũ

Giặc đến đập tủ đốt nhà

Mẹ liều thân già cứu nguy rương gỗ

Trước đòn thù mũi súng

Mẹ bảo đây là kỷ vật gia đình

Sống mái giật giành

Rương hóa thành hòm

Lỡ mẹ hy sinh

Gia tài mẹ

Những chiếc nồi Thạch Sanh

Nồi một-vợ chồng son

Nồi hai, nồi ba-thêm nhiều mặt con

Nuôi cả đại đội, tiểu đoàn

Mẹ dùng nồi bảy, nồi mười

Dưới ánh hỏa châu mẹ ngồi sàng sảy

Những mùa vàng dưới đạn trên bom

Những hạt chảy ròng

Đòn cong lưng mẹ

Mẹ đun rơm đun rạ, nhánh tre gai, cây sắn khô, cành mít rụng

Tro rắc bạc trên đầu

Lửa đùa reo trong mắt

Mẹ móm mém cười cơm ngon canh ngọt

Đắm đuối cái nhìn dãy hầm ở góc bờ tre

Những chiếc nồi ba, nồi bảy nuôi đàn con lớn khôn

Nuôi đại đội Phan Thanh diệt đoàn xe công-voa giặc Tây nơi Gò Phật

Nuôi Cúc xã đội phó-cô cháu ngoại và tiểu đội du kích

Đẩy lùi cả tiểu đoàn Mỹ-ngụy ác ôn…

Những chiếc nồi giờ ở bảo tàng

Bình dị như bao nồi khác

Hao hao cánh cò cánh vạc

Lòng mẹ ấm nồng chan chứa mênh mông

5.

Gia tài mẹ

Chiếc chõng tre

Thời gian đi qua

Chiến tranh đi qua

Soi bóng mẹ suốt bao thập kỷ

Bao lần vượt cạn quặn đau

Bao lần khóc cười chào đón

Những đứa con rơm rạ

Những ngày ngực lép sữa khô

Những đêm mưa vách xiêu nhà dột

Bom giội pháo rung địch bố ráp địch lùng

Bầy trẻ ôm nhau khóc thét

Mẹ bế đứa nhỏ vào lòng

Quờ đứa lớn bên hông..

Mùa đông

Dưới chiếc chõng tre

Những trã than ấm nồng tình mẹ

Chở che cán bộ nằm vùng

Lớn lên từ chiếc chõng tre

Những đứa con bộ đội

Những đứa con du kích

Những đứa con biệt động…

Không một đứa về

Bên mẹ một ngày xuân

Xin hỏi những làng quê

Xin hỏi những cánh đồng

Có chiếc chõng tre nào

Như chiếc chõng tre đời mẹ, hay không?

Nhà mẹ đạn bom hóa kiếp bao lần

Sau chiến tranh sạch sành sanh của nả

Giật gấu vá vai

Vợ chồng mẹ lội ngược lên non

Mua nhà cũ xuôi bè Thu Bồn về dựng

Có người bảo:

Mắc chi đeo cái cực

Chín con liệt sĩ mà, nhà Chính phủ xây cho

Vợ chồng mẹ cười:

Chúng tôi tự lo

Mình còn khỏe ỷ lại chi Chính phủ

Nhà phụ, cột phụ-đã có tre vườn

Tấm lợp tấm che-đã có bói, tranh ngoài bãi

Nhớ câu chung giàn bầu bí

Vợ chồng mẹ không nhận nhà tình nghĩa

Nhường gia đình liệt sĩ nghèo khó neo đơn

Chín con trai ngả xuống, nào đâu tính thiệt hơn

6.

Nhớ những ngày gian nan

Bộ đội chúng con ăn muối rúc hầm

Mơ ngày Thu Bồn xanh thẳm

Giá như có nhiều nhật thực

Để làm êm dịu mùa hè

Giá như có nhiều suối khe

Cho mẹ mát mẻ

Giá như có nhiều lớp trẻ

Quây quần bên mẹ chuyện xưa…

Chúng con về xóm Rừng thăm mẹ

Gió ngập ngừng nhắn gọi bờ sông

Chừ đường làng đã lợp bê-tông

Nồng nàn thuốc lá xâu hiên nắng

Nhịp sống mẹ

Từng giây yên lặng

Nhịp sống làng

Hối hả xôn xao

Khu vườn mẹ bậc thấp bậc cao

Xin cỏ cây đỡ đần Người khỏi ngả

Lẳng lặng bên bếp xưa lu, vại

Những căn hầm âm vang thời chưa xa

Chín bông huệ nở bừng trong sắc lá

Có phải anh linh các con mẹ về?

Đình làng xưa bảy gốc cây chim chim

Chừ chỉ còn độc gốc chim chim kia im ắng

Phủ rợp làng che chở cháu con

Các anh chết trẻ chết son

Dành tháng dành năm cho mẹ

Trong mắt mẹ con lúc nào cũng bé

Tuổi mẹ trăm năm như cây dó nên trầm

7.

Thời gian

Xin đừng trôi mau

Mẹ bây chừ mây trắng trên đầu

Sóng dâng lên trán

Xin cho mẹ phút giây thanh thản

Tay ngoáy trầu miệng cất lời ru:

Con hời con hỡi hời con

Bây chừ xong việc nước non con nằm

Đời mẹ đời đã trăm năm

Đời con son trẻ trăng rằm sáng gương

Mẹ thương mẹ thương mẹ thương

Ru con mắt mẹ khói sương nhập nhòa

Thời gian

Có thể làm dịu nỗi đau

Không thể nguôi ngoai nỗi nhớ

Chim khách kêu, mệ bồn chồn trông của

Khách gần, khách xa

Chín con trai mẹ không về

Giữa chập chờn tỉnh mê, mẹ gặp

Chín con trai chắc như cột đình

Ùa về ôm chầm, vồ vập xuýt xoa

Tự Chuyển, Tự Cẩn nói giọng miền trong

Hàn Anh, Tự Trịnh pha giọng miền ngoài

Hàn Em, Tự Nự, Tự Lem rặt giọng Quảng Nam

Út Trịnh ngoáy trầu nghe mẹ à ơi:

Con ơi con ngủ cho ngoan

Mai sau khôn lớn lo toan việc đời

Theo gương anh Trỗi, anh Lời

Chị Vân, chị Lý rạng ngời sử xanh…

8.

Mẹ lọ mọ góc bàn thờ

Mân mê từng bát hương, tấm ảnh

Mười hai núm ruột hy sinh

Quả cảm kiên cường trong từng trận đánh

Khắp chiến trường Quảng Đà, Sài Gòn, Tây ninh

Mẹ hình dung ra con cháu của mình

Mẹ lững thững góc sân

Trong hương ổi xưa thấy chồng mình vun gốc

Những chạc, nhánh mòn dấu chân con cháu

Mối tình xưa thấp thoáng hiện về

Mẹ tựa vào hàng tre xưa

Lòng nghe nhoi nhói

Gốc tre già khô ở lại

Những búp măng vội vã lìa đời ?!

Tiếng kẽo kẹt kẽo cà

Cứa sâu miền ký ức

Những đêm dài mẹ cùng chồng thao thức

Đan phên tre che gió lọt quanh nhà

Những đứa con lớn lên

Nhịp tre ru lẩn tiếng gầm đại bác

Gai tre làng, chặn đàu xe bọc thép

Bụi tre gai ôm ấp những căn hầm

Tre gai hóa thành cổ tích dân gian

Thời gian

Có thể làm vơi dịu nỗi đau

Dễ gì nguôi ngoai nỗi nhớ

Những Chuẩn, Sự, Phòng, Tư…

Mấy chú đặc -công-chín-mốt

Quê ngoài Bắc xa lơ xa lắc

Đã hy sinh còn ở lại làng mình

Một góc trời xanh rưng rưng mây trắng

Tuổi già thưởng lẩn thẩn dễ quên

Nhưng mẹ thì rất nhớ

Cuối tháng ba ngày giải phóng Quảng Nam

Cũng là ngày đại lễ

Mẹ giỗ chung con, cháu, rể

Mười hai bát hương nghi ngút cháy trong lòng

Mẹ bần thần so đũa gọi tên

Nhớ từng tiếng cười dáng đi giọng nói

Bát cơm cúng không cõng khoai ghế sắn

Hàng xóm cúi đầu lặng, nghiêm

9.

Mẹ ngồi trên chiếc xe lăn

Thăm cháu, thăm con nghĩa trang liệt sĩ

Trong gần năm nghìn bia mộ

Đội ngũ hôm nay vẫn thẳng hàng

Tóc mẹ bời bời khói hương ngọn cỏ

Cỏ ơi nhang ơi

Xin đan làm tao nôi cho mẹ

Gió ơi hương ơi

Xin làm ngọn nồm nam dịu mùa hè cho mẹ

Những ngôi sao trên mộ bia

Xin làm ngàn ánh sao trời ho mẹ

Soi sáng mát lành dìu dặt lời ru:

Các con vì nước vì non

Tự do độc lập mẹ còn ước chi

Một lời son sắt khắc ghi

Làm người có nghĩa có nghì là hơn

Vẳng bên tai chúng con lời mẹ sắt son:

Chín con trai, một con rể, hai cháu ngoại hy sinh

Nhưng nước nhà độc lập

Nước mất, làm chi nhà còn

Công lao mẹ

Một giọt nước mùa mưa…

10.

Thưa mẹ,

Gạo chợ

Nước sông,

Bộ đội chúng con về xóm Rừng

Làm đường, làm sân, làm nhà cho mẹ

Tre làng làm cuốc, làm khiêng

Gái làng góp công tiếp nước

Lính phòng không- không quân Ba Bảy Năm, Ba Bảy Hai quần quật

Không tính giờ kể giấc

Chỉ tấm lòng chân thật

Mong đời mẹ mỗi ngày

Thêm một bát cơm

Thêm một niềm vui

Thêm một nụ cười

Bên đàn cháu nhỏ

Làng quê qua ngày gian khó

Đời mẹ cũng bớt nhọc nhằn

Vầng trán vết nhăn thời gian

Nỗi đau mất cháu con đọng lại

Bây chừ đường, sân, nhà…

Các công trình đều mang tên Mẹ Thứ

Con cháu mẹ hy sinh hóa thành bất tử

Bên những mộ bia xanh, xanh thẳm xóm Rừng

Thưa mẹ,

Bộ đội chúng con lại về bên mẹ

Tiếp bước các anh gìn giữ sơn hà

Xin làm một hạt phù sa

Cho non ngàn xanh thẳm

Bờ bãi mỡ màu

Đất nước mang hình bóng mẹ

Che chở chúng con suốt cuộc hành trình

Bên mẹ, chúng con thấy mình nhỏ bé

Trong dịu hiền đôi cánh tay sông

Chiến tranh đi qua

Để lại xóm Rừng những bà mẹ góa

Vượt lên nỗi đau

Vượt qua nghiệt ngã

Mẹ là huyền thoại Việt Nam.

LÊ ANH DŨNG

(Ngày 27-7-2002 -

trường ca, Nhà xuất bản QĐND 2003)

* Xem tiếp trang 2

Mẹ Thứ anh hùng

Mẹ ru

Lũy tre ngăn tăng quân thù

Mẹ ru

Chõng tre chở che căn hầm

Mẹ ru

Võng tre khiêng thương binh

Mẹ ru

Địa đạo pháo gầm chung chiêng

Mẹ ru

Tao nôi bình yên

Mẹ ru

Sâu lắng nỗi miềm nước non

Ngủ đi con, ngủ cho ngoan

Mai ngày nuôi lớn chí khôn diệt thù

Mẹ ru mẹ ru mẹ ru

Trông vời biển thẳm vọng phu hao gầy

Mẹ ru đá hát lời mây

Quân đi như thể rừng cây điệp trùng

Người anh hùng đất anh hùng

Trong vinh quang có não nùng xót xa

Sông Thu Bồn không đỏ nặng phù sa

Mà đỏ nặng máu những người đã khuất

Câu ca nói về sông

Câu ca nói về hơn sáu ngàn liệt sĩ

7.289 Mẹ Việt Nam anh hùng đất Quảng

Lấp lánh ngôi sao trước ngực

Sau tấm huân chương con gặp

Mẹ Thứ- Điện Bàn

12 con cháu hy sinh

Nỗi đau xé ruột xé gan

Tột cùng tận hiến

Tột cùng vì nước xả thân

Biển cả bao la

Mênh mang sao bằng mắt mẹ

Chất ngất nhớ mong

Thăm thẳm đợi chờ

Khắc khoải niềm thương nỗi nhớ

Cháu con mẹ là mặt trăng, mặt trời

Mặt trăng, mặt trời của mẹ lặn ngày đất nước đoàn viên

Quảng Nam trung dũng kiên cường

Đất nước tạc tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng

Nguyên mẫu hình hài mẹ Thứ

Ngàn đời vinh danh

Một mình mẹ gánh

Gánh cực đắp lên non

Gánh buồn trải ra biển

Gánh khổ gánh đau tê diếng

Không bằng mẹ gánh

Nỗi đợi chờ đằng đẵng cháu con

Con cháu mẹ mất đi non sông bình yên

Việt Nam ngời lên tự do độc lập

Hồn các anh, chị hóa thành mây thành khói

Đất đai cây cỏ này bàng bạc bóng anh linh

Mẹ Việt Nam anh hùng- quần thể tượng đài nghĩa tình

Dân tộc tôn vinh đời đời ghi khắc

Tam Kỳ- núm ruột ba miền Nam-Trung-Bắc

Núi Cấm-quần thể tượng đài mẹ như lũy như thành

Lồng lộng biển Đông

Kính thưa mẹ đầu nguồn cuối sông

Từ Bắc chí Nam người còn kẻ mất

Tâm linh xin hội tụ về

Tượng đài mẹ giữa phố giữa quê

Giữa biển giữa sông giữa đồi giữa núi

Cánh tay choàng chở che

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Mẹ bình thản nén nỗi đau chịu đựng

Sáng một vầng trăng bao dung

Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng

Hình tượng Việt Nam thủy chung son sắt

Hình khối thấp cao ngân nga cung bậc

Dáng mẹ hiền ngời ngợi biern trời lồng lộng núi sông

Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng

Cội nguồn nước non

Cội nguồn dân tộc

Trước Người

Con nghiêng mình tôn vinh tưởng nhớ

Chiêm nghiệm được mất ở đời

Chiêm nghiệm lẽ sống Việt Nam

Mẹ Quảng Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi

Nhờ Người

Đất đai núi sông này thiên thu bền vững

Nhờ Người

Nuôi dưỡng cháu con lớn lên cùng lịch sử

Nhờ Người

Chở che cháu con theo đường nhân loại đang đi

LÊ ANH DŨNG

(Trích chương 6 trường ca Dòng sông di sản

Nhà xuất bản QĐND 2009)

Mây trắng về trời

(Kính dâng hương hồn Mẹ Thứ)

Mẹ ơi, mây trắng về trời

Thơ con chưa nói hết lời mẹ thương

Bao năm mỏi mắt sân vườn

Bao lần ngất lịm, đoạn trường vì con

Một nhà đông tựa núi non

Chừ một mình mẹ mỏi mòn chờ mong

Trời cao đất rộng mênh mông

Mười hai con cháu đi không thấy về

Lòng mẹ chừ thêm tái tê

Chị Trị con cả-lết lê chân gầy…

Hồn mẹ vương vấn mỗi ngày

Khói hương ngọn cỏ dàu dàu bên con

Nước mất, làm sao nhà còn

Con cháu mất, được giang sơn vững bền

Ơi lòng mẹ Thứ mông mênh

Trán dâng mây trắng thênh thênh cõi trời

LÊ ANH DŨNG

(Đêm 11-12-2010)

LÊ ANH DŨNG (Ngày 27-7-2002 - trường ca, Nhà xuất bản QĐND 2003)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên