Những tiếng ồ lên ấy không phải vì ngạc nhiên mà vì cảm thấy được an ủi.
Nobel văn học 2011 gọi tên Tomas Tranströmer
Phóng to |
Dù danh tiếng và tầm ảnh hưởng của mình đã vượt ra khỏi biên giới Thụy Điển, dù đã nhận nhiều giải văn học quốc tế, dù tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới, Tomas Tranströmer - một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời đại - dường như bị Viện Hàn lâm Thụy Điển lãng quên.
Chàng sinh viên làm thơ
Năm 1954, cách đây 57 năm, chàng trai trẻ 23 tuổi Tomas Tranströmer xuất bản tập thơ đầu tay với cái tên giản dị 17 dikter (17 bài thơ). Chỉ bốn năm sau, khi ra mắt tập thơ thứ hai Hemligheter på vägen (Bí mật trên đường), Tomas Tranströmer đã tạo được bản sắc riêng và nhanh chóng được chú ý. Những bài thơ của ông tỏa sáng với sự giản dị hiếm có, nhận thức tinh tế, ấn tượng thân thiết và ẩn dụ phong phú. Lúc ấy, Tomas Tranströmer còn là sinh viên ngành tâm lý học tại Đại học Stockholm.
Sự thành công quá sớm này là một trong những nguyên nhân khiến Tomas Tranströmer bị những nhà thơ trẻ hơn phê phán là thiếu dấn thân. Tomas Tranströmer trả lời họ theo cách riêng của mình: ông tiếp cận và giáo hóa các tội phạm trẻ, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật bằng kiến thức tâm lý chuyên ngành.
Nhà thơ của thời đại
Sự giản dị trong tác phẩm của Tomas Tranströmer là một thủ pháp nghệ thuật có thể “đánh lừa” những độc giả “nhẹ dạ” vì những gì bình thường đều trở nên phi thường trong ngôn ngữ của nhà thơ. Tương tự những họa phẩm thuộc trường phái siêu thực, sự cô đọng đặc biệt trong thơ Tomas Tranströmer được thể hiện qua các hình tượng, các cám dỗ siêu hình, sự im lặng và màu trắng.
Tomas Tranströmer cũng có nhiều thử nghiệm về vần điệu, ngắt câu và thơ văn xuôi. Mörkerseende (Tầm nhìn trong đêm - 1970) và trường ca Östersjöar (Baltic - 1974) là hai trong số các tập thơ nổi tiếng của ông được nhà thơ Mỹ Robert Bly dịch sang tiếng Anh.
Sau cơn đột quỵ khiến ông bị liệt và mất khả năng nói vào năm 1990, nhà thơ được Hội đồng Bắc Âu trao giải cho tập För levande och döda (Cho người sống và cho kẻ chết - 1989). Nhà thơ sáng tác chậm dần, đôi khi ngừng hẳn vì phải đấu tranh giữa sự sống và cái chết. Tuy nhiên, các tập haiku của ông vẫn ra mắt độc giả: Sorgegondolen (Chiếc thuyền tai họa - 1996), Diktsamling (Đoản thi - 2001), Den stora gåtan (Đại ẩn ngữ - 2004).
Tomas Tranströmer xứng đáng nhận giải Nobel văn học vì ông là một nhà thơ lớn như nhận xét của Peter Englund - thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển: “Qua những hình ảnh cô đọng và trong mờ, Tranströmer đã mở ra cho chúng ta một cách nhìn mới về hiện thực. Ông viết về những vấn đề lớn: về cái chết, lịch sử, ký ức, thiên nhiên. Bạn không bao giờ cảm thấy nhỏ bé sau khi đọc thơ của Tomas Tranströmer”.
Những bài thơ của Tomas Tranströmer từng được dịch và in ở Việt Nam (Toàn tập thơ - Mười một tập do Nguyễn Xuân Sanh dịch, NXB Văn Học phát hành năm 2000).
Những nét gạch xóa của lửa Trong những tháng tối tăm này, đời anh chỉ tỏa sángKhi anh yêu em. Như con đom đóm chói chang rồi tắt ngóm,Chói chang rồi tắt ngóm - đôi khi chúng ta cũng có thể đi theocon đường của nóTrong đêm giữa các cây ôliu. Trong những tháng tối tăm này, đời anh bị xô giạt và ì trơ,Tuy cả người anh đi thẳng đến với em.Ban đêm, bầu trời gào thét.Không cho ai biết, chúng ta rút sữa từ hoàn vũ, để sống còn. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận