![]() |
Buổi sáng ở cửa khẩu quốc tế Poi Pét - Campuchia |
Đường phố sạch sẽ, khang trang hơn, không còn dáng vẻ của một cuộc sống tạm bợ. Phố tuy chưa có nhà cao nhưng đã đầy màu sắc. Người xe đi lại rộn ràng trong dòng xe có và không có biển số đăng ký.
Vui xiết bao khi gặp lại anh Thắng - một cán bộ tỉnh Battambang - người đã có nhiều kỷ niệm với bộ đội sư đoàn 5. Anh là người dân Lovia, một làng giàu nép mình bên dòng Môngcôn Bôrây xinh đẹp, được bộ đội trung đoàn 4 sư đoàn 5 cứu thoát vào những ngày cuối tháng 1-1979.
Anh nhắc lại kỷ niệm với những người chỉ huy ở trung đoàn 16 bộ binh và trung đoàn 28 pháo binh bằng một tình cảm chân thành, nồng ấm. Từ xã lên huyện, rồi nay về tỉnh, dù ở đâu và lúc nào tình cảm của anh dành cho bộ đội tình nguyện VN vẫn vẹn nguyên.
Rời thị xã Battambang trong nắng ban trưa chưa đến nỗi gay gắt vì đang ảnh hưởng đợt không khí lạnh tràn xuống từ phương bắc, chúng tôi hướng về thị xã Sisophon, tỉnh lỵ của tỉnh mới Banteay Meanchey.
Đối với bộ đội tình nguyện sư đoàn 5 và mặt trận 479, Sisophon là thị xã thân quen, thị xã vàng (Gold City), bởi nơi đây thuốc lá thơm Gold City 85 của Thái Lan đã xuất hiện giữa năm 1979. Cùng với thuốc lá thơm, một số mặt hàng nhu yếu khác được nhập lậu từ những đường rừng biên giới đã tạo nên nét phồn hoa không thể ngờ giữa vùng biên nhiều hiểm nguy và gian khó.
![]() |
Tác giả Phạm Sỹ Sáu khi còn ở quân ngũ (trên đường vào Poi Pét, tháng 4-1981) |
Qua cầu Tức Thala - cây cầu hẹp như ngày nào, dường như đang oằn mình chịu đựng hàng chục chuyến xe nặng mấy chục tấn qua lại mỗi ngày. Xe tải và xe con, xe lôi và xe gắn máy, hàng trăm chiếc ngược xuôi trên đoạn đường hơn 50km hướng về biên giới.
Con đường ra biên giới nay đã gần lại đến không ngờ. Gần lại không phải vì có con đường mới mà hàng chục, hàng trăm căn nhà đã mọc lên suốt chiều dài gần 30km từ đầu Khala Sophi đến ngã ba Nimít.
Một huyện mới đã hình thành từ phần đất phía tây huyện Sisophon cũ gồm các xã Sophi, Samrong, Changha, Takongkrao, Kop và Mohon với cái tên nghe thật dịu dàng: Serey Sophon.
Đồng vẫn bát ngát đồng và rừng vẫn mênh mông rừng, nhưng giữa đồng đã mọc lên nhiều con lộ mới và giữa rừng bên cạnh những nóc chùa cao vút là hàng trăm cột ăngten thu sóng điện thoại và truyền hình. Nhà đã dày đến độ đi qua ngã ba Kôp Túi tôi không còn nhận ra con đường dẫn vào Takongkrao - phum bìa rừng trên con đường vào rừng độc Phnom Melai từ hướng đông.
Xe qua phum Diêng hoang tàn khiến lòng tôi buồn vô hạn. Còn đâu cái phum nhỏ đẹp đẽ nép mình bên hồ nước Khai Đôn rộng hàng trăm mẫu, nơi tôi đã nung nấu và cho ra đời không ít những bài thơ trong cuộc đời chiến trận của mình.
Phum không còn một nóc nhà, bù lại bên bìa rừng đã xuất hiện những cột ăngten. Con đường dẫn về Poi Pét cũng chẳng khá gì hơn so với thời tôi đóng quân ở đây vào những năm đầu thập niên 1980. Có đoạn đường còn xấu hơn do phải chịu sức nặng hàng trăm, hàng ngàn tấn hàng mỗi ngày.
Từ cây bồ đề C.16, nhà cửa đã dần khang trang hơn. Ruộng đã ít đi nhường chỗ cho nhiều công trình đang xây dựng.
Poi Pét dường như đã dài ra thêm sáu, bảy cây số vì cảnh tấp nập phố thị đã rất cận kề. Đã xuất hiện những cột đèn đường (điều khá hiếm hoi đối với những thị xã nhỏ và vùng quê lớn Campuchia).
Một chuyến xe chạy qua bụi mù bay. Bụi chưa kịp tan thì tiếp một chuyến xe nữa. Cứ thế, đường vào Poi Pét chúng tôi đi trong bụi mù. Bụi không làm tôi xót mắt mà tôi xót mắt vì kiếm tìm những căn nhà của Poi Pét xưa.
Không còn Poi Pét của tôi với thời “Poi Pét mùa mưa” (tác phẩm thơ). Tôi bàng hoàng trước một Poi Pét mới ồn ào và náo nhiệt. Thị trấn đầy tiếng động. Tiếng động của xe, của người, của búa máy và của âm nhạc.
Ngày xưa cả thị trấn rộng chỉ có trên dưới 100 người lính chốt giữ. Ngày nay Poi Pét là một cửa khẩu quốc tế với hơn hai vạn dân sinh sống và vài vạn người khác đến làm việc ở khu chợ đầu mối bên này và bên kia biên giới. Phía trước quảng trường nhà ga xe lửa cũ, nay đã là dãy lầu ăn thông từ bắc qua nam đường số 5 ra cửa khẩu và cầu biên giới của hệ thống Tropicana - một liên hoàn nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và casino.
Khu vực phía bắc cầu biên giới, nơi trước kia mìn trái giăng đầy nay đã là một dãy các nhà hàng, khu mua sắm, khu giải trí và casino, lại casino. Tôi bước vào và thấy, không có dân Campuchia, chỉ có người nước ngoài. “Cò con” dưới đất và sang trọng trên lầu. Một phần cửa khẩu sống về đêm vì những con bạc ham chơi và ham chết.
Đêm ngủ tại nhà nghỉ Ngy Heng, tôi chẳng thể nào chợp mắt. Poi Pét của thơ tôi là đây sao? Poi Pét của những người ở lại và một số người đã ra đi không còn nữa. Một Poi Pét của thời mới đã mở ra, náo động và ồn ào.
Buổi tối và buổi sáng nhìn hàng vạn người lũ lượt vào ra cửa khẩu biên giới làm việc cho Thái Lan hoặc Campuchia, tôi chợt cảm nhận một niềm vui của sự mất mát. Tôi không tìm thấy lại Poi Pét của thời tôi đã sống nhưng tôi thấy những giọt máu và mồ hôi đồng đội đổ xuống trên từng mét đất Poi Pét đã tạo nên một thị trấn biên giới sầm uất, sầm uất đến bàng hoàng!
Tôi rời Poi Pét sau 17 giờ đến, nhớ và sống. Tôi lại ngược hướng đông trên đường trở về Tổ quốc. Xe lại qua phum Diêng hoang tàn mà lòng tôi đã đỡ xót xa.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận