17/01/2016 11:26 GMT+7

Ký ức đất rừng phương Nam - Kỳ 2: Người xưa, cảnh mới

     TẤN ĐỨC
TẤN ĐỨC

TT - Trong ký ức của những người cao tuổi, từng sống qua thời tản cư nửa cuối thập niên 1940, vùng đất phương Nam đã từng vô cùng giàu có, hệt như trong tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi...

Ông Nguyễn Văn Đã (Hai Tây, 95 tuổi), ở huyện Trần Văn Thời, Cà Mau, một nhân chứng của vùng đất U Minh Hạ - Ảnh: Tấn Đức
Ông Nguyễn Văn Đã (Hai Tây, 95 tuổi), ở huyện Trần Văn Thời, Cà Mau, một nhân chứng của vùng đất U Minh Hạ - Ảnh: Tấn Đức

“Cậu hỏi chuyện chạy giặc Tây hả, để tui kể cho mà nghe, tới sáng cũng chưa hết đâu. Mà có gì gấp cho bằng chạy giặc!

Hễ nghe tiếng súng lơi lơi còn gom mấy thứ đồ dùng cần thiết mang theo, còn nghe cận quá phải chạy bộ, cỏ lác cắt xước hết cả chân, rách bung quần áo” - bà Tư Hoa (Trịnh Thị Hoa, 91 tuổi, ở khóm 6, thị trấn Thới Bình, Cà Mau) kể.

Những chuyện xa xưa

Ở tuổi xưa nay hiếm nhưng thị lực và trí nhớ của bà vẫn rất tinh tường, chỉ có đôi tai hơi bị “nghễnh ngãng”, nhưng chỉ cần gợi vài câu chuyện là bà kể ghi còn không kịp.

“Có lần tui trông thấy mấy tay lính lê dương mang gươm dài tận đất, mặc đồ rất hì hợm kéo vô xóm, may là vợ chồng tui kịp nhảy lên ghe chống sâu vô rẫy người quen ở xã Tân Bằng cạnh bên dựng lều ở trốn tạm, hơn tuần lễ, thấy êm êm mới dám trở về.

Mà không chỉ gia đình tui đâu hen, hồi đó khắp đầu trên xóm dưới hễ nghe tin giặc tới là người ta lũ lượt kéo nhau chạy. Xuồng ghe buộc sẵn trước nhà, cứ chất đồ xuống mà đi.

Giặc tới đầu này thì chạy đầu kia, có lúc gặp ghe của người dân đi làm ăn xa trở về hoặc ghe thương hồ của dân xứ khác tới, nghe mình báo tin cũng quay đầu mà chạy.

Cực khổ, vất vả nhưng bà con thương yêu, đùm bọc nhau lắm. Mắm muối, gạo thóc đều san sẻ cho nhau, không ai phải đói khát đâu” - bà Tư nhớ lại.

“Chạy giặc có giống như trong phim không?” - chúng tôi hỏi đùa. Nhưng bà Tư Hoa thì không đùa chút nào: “Thì cũng hệt vậy thôi. Có điều mấy cô chú đóng phim mặc đồ mới quá hà, không giống chúng tôi hồi xưa. Còn những chuyện khác thì không sai”.

Rồi bà Tư Hoa xuýt xoa: “Tui nhớ hồi đó trong xóm vẫn thường thấy cọp về bắt heo, bắt bò nuôi trong chuồng, bà con phải hè nhau đốt lửa, gõ thùng thiếc cho nó giật mình bỏ đi. Còn heo rừng thì khỏi nói, hễ mình sơ suất là nó nhảy vô phối giống heo nhà.

Có lần đương đêm ông anh tui thấy con heo rừng tổ chảng mò vô, ông vác mấy khúc gỗ dần lên nóc chuồng, nhốt nó lại định sáng rủ hàng xóm xúm lại bắt chia thịt.

Vậy mà sáng ra cả heo rừng, heo nhà đều đã biến mất qua một cái hang nó bươi từ hồi nào. Cá sấu còn dữ dằn hơn, có những khu đầm lầy sấu đi riết mòn thành con lạch nhỏ, rồi người ta đặt luôn tên là rạch sấu bò”.

Bà Tư Hoa cũng cho biết tới những năm đầu sau giải phóng miền Nam, những con vật hoang dã ấy vẫn còn đầy rẫy, nhưng rồi chúng đã nhanh chóng biến mất khi ngày càng có nhiều người từ nơi khác đến săn bắt, khai hoang, tăng vụ, mở đất làm kinh tế mới.

Nhà thơ Nguyễn Bá cũng là một nhân chứng của thời kỳ đất rừng phương Nam chuyển mình thay đổi. Năm 1938, ông chào đời ở vùng đất Mỹ Lồng, huyện Ba Tri (Bến Tre).

Khi Pháp trở lại xâm chiếm Nam kỳ, ông đã theo cha mẹ tản cư qua Giồng Trôm rồi vượt sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên chạy dần xuống miệt Hậu Giang.

Cho tới năm 14 tuổi thì gia đình ông xuống tới Trần Văn Thời (Cà Mau) rồi tham gia kháng chiến, trở thành dân của vùng đất phương Nam từ hồi nào.

“Ở lung Chuối Nước, Kinh Dương Hòa 2, huyện Trần Văn Thời có nhiều vườn có các loài chim lớn về trú ngụ như bồ nông, chàng bè, trâu cồ... có con nặng trên chục ký. Các loài chim này rình bắt cá, còn cá sấu thì rình bắt chim. Nhiều bữa tui bơi xuồng ngang qua, bầy cá sấu nằm rình trên bờ giật mình nhảy ùm xuống nước”.

Các loài cầm thú như cọp, trâu rừng, nai, heo rừng... ông Bá cũng cho là “nhiều vô kể”.

“Ban đầu chúng sinh sống rải rác trong rừng U Minh, rồi sau đó thu hẹp dần theo hai bờ sông Đốc, di cư dần xuống Đất Mũi.

Cho tới những năm cuối thập niên 1950 thì những con hổ cuối cùng ở U Minh đã bị bắn hạ để làm căn cứ kháng chiến, vì không bắn thì không biết nó sẽ vồ mình lúc nào không hay” - ông Bá kể.

Ông già bẫy chim Lê Văn Tám - Ảnh: Tấn Đức
Ông già bẫy chim Lê Văn Tám - Ảnh: Tấn Đức

Ông già bẫy chim

Tại vùng đất trù phú thuộc xã Vĩnh Thịnh, thành phố Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) chúng tôi tình cờ gặp lại một nhân vật khá đặc biệt - ông Lê Văn Tám. Ông già 85 tuổi này là một trong những cư dân sống “du cư” hiếm hoi còn sót lại.

Có lẽ đã hơn nửa thế kỷ ông lão sống bằng nghề “săn bắt hái lượm”. Khi thì người ta thấy ông ra mé biển đẩy xiệp bắt cá, rồi có lúc lại bắt gặp ông ngất ngưởng với mấy tay lưới trắng hếu trên tay đi bẫy chim.

Bộ đồ nghề mà ông luôn mang theo bên mình ngoài mấy tay lưới, thể nào cũng có chiếc máy cassette cùng những cuộn băng thu âm sẵn tiếng kêu của các loài chim cu, chim cuốc, chim bìm bịp.

Tùy theo mùa, theo địa hình ông già sẽ bủa lưới rồi mở băng để dụ chim đến mắc lưới. Điều lạ là hàng mấy chục năm sống lang bạt kỳ hồ khắp nơi như vậy nhưng ít khi ông bị cảm mạo, hay đau ốm phải dùng thuốc.

Hỏi ông lớn tuổi rồi sao không về với con cháu hoặc tìm nghề khác để sinh nhai, ông phân trần:

“Không phải con cháu không lo được cho tui, mà trái lại chúng luôn muốn tui về nghỉ ngơi, nhưng tui thích vầy. Không biết có phải tui già rồi đâm đổi tính hay nghĩ quẫn, chứ tui đi giăng lưới mà trong bụng không cầu trúng nhiều, miễn là tìm được niềm vui khi được sống gần gũi với thiên nhiên, được tự do hít thở khí trời”.

Nói vậy nhưng khi chúng tôi hỏi cảnh vật, muông thú bây giờ có còn như ngày xưa, thuở ông còn ở tuổi thanh niên, ông Tám trầm giọng:

“Đổi thay quá nhiều, do người ta tàn sát mà ra cả”. Rồi ông hướng đôi mắt nhìn xa xôi về phía biển Nhà Mát (TP Bạc Liêu), nơi đó, xa tít trên bầu trời đang hiện rõ dần bóng dáng một đàn chim bay về tổ khi hoàng hôn xuống.

“Mong cho ngày nào cũng thấy chúng trở về đông đủ như vầy” - ông Tám cất giọng.

Đi sâu vào miệt U Minh Hạ, nơi một thời là bản doanh của chim muông và bao loài thú hoang dã cùng sinh sôi, chúng tôi tìm gặp ông Hai Tây (Nguyễn Văn Đã, 95 tuổi) ở ấp Cơi Tư, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời, Cà Mau.

Nhiều người nói ông Hai Tây là từ điển sống về vùng đất U Minh Hạ.

Hồi tuổi trẻ ông tham gia đánh Pháp, dọc ngang khắp vùng đất cực Nam đất nước. Chứng kiến nhiều nạn nhân đi rừng, làm rẫy vô tình bị các loài rắn độc, nhất là hổ chúa cắn sùi bọt mép không kịp cứu, ông đã tầm sư học nghề thuốc rắn.

Mấy chục năm trong nghề, ông đã cứu không biết bao nhiêu người, thậm chí có nạn nhân đã cứng miệng ông vẫn kịp cho thuốc giải độc. Nhưng khoảng chục năm nay người ta ít gọi ông.

“Không phải tui già yếu hay làm biếng, mà vì bây giờ các loài rắn đã bị săn bắt dữ dội, riết rồi rắn độc cũng thành của hiếm, ít khi có người bị cắn” - ông Hai Tây nói mà gương mặt trông buồn đến lạ.

_________

Xem kỳ 1:  >> Đoàn Giỏi: “Xưa rồi mày ơi”

Kỳ tới: Tình người phương Nam

TẤN ĐỨC
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên