![]() |
Đội quân “chưột cống” - Ảnh tư liệu |
Địa đạo được đào ở khắp nơi nhưng mạnh mẽ nhất là ở chiến trường các xã bắc Củ Chi. Ở Tân An Hội thì ta đào địa đạo ở ấp Mũi Lớn. Nhuận Đức thì đào ở Bàu Chứa, Bàu Trăn, xóm Bưng. Phú Hòa Đông thì đào ở Phú Mỹ, Phú Hòa. An Phú thì đào ở xóm Chùa, xóm Thuốc. Phú Mỹ Hưng thì đào ở Phú Hiệp, Phú Lợi...
“Lúc đầu mình đào lớn nên mưa dễ sụp. Rút kinh nghiệm nên sau đó đào nhỏ, chủ yếu để bò hoặc lom khom”. Với kích thước đó thì lính Mỹ to lớn dềnh dàng chỉ còn biết đứng... ngó. Đến những năm 1962 -1963 thì hệ thống địa đạo các xã gần như đã nối liên thông.
Kỳ quan ở... tử địa Nhuận Đức
Nhuận Đức những năm chống Mỹ với hệ thống địa đạo chừng trên 11km, một bộ phận hợp thành của hệ thống địa đạo huyền thoại trên 200km Củ Chi, là tử địa của hàng chục ngàn Mỹ-ngụy. Ông Tư Cậm, nguyên chính trị viên xã đội Nhuận Đức những năm đánh Mỹ, nói chắc: “Ngày nào mà tụi Mỹ càn vô Nhuận Đức thì thế nào bên kia trái đất cũng có vài bà mẹ, bà vợ khóc con khóc chồng”.
Tôi ngó kỹ ông Tư Cậm và nín cười vì một liên tưởng hơi… vô lễ: nếu đem cân ký thì ông Tư Cậm chỉ bằng phân nửa một tên lính Mỹ dềnh dàng. Ông người nhỏ thó, quãng chừng 45kg là hết sức. Nhuận Đức ngày xưa không xanh tươi như bây giờ mà trắng dã xác xơ, lại lọt thỏm giữa bốn bề đồn bót: bót An Nhơn Tây, bót Trung Hòa, bót Phú Hòa Đông, bót cầu Bến Mương, huyện lỵ Củ Chi và sau này là căn cứ Đồng Dù của sư đoàn dù 25 “Tia chớp nhiệt đới” Mỹ.
Do vậy khi đi càn, dù xuất phát từ bất cứ hướng nào địch cũng phải càn qua Nhuận Đức. Cũng chính ở trong thế “cái túi” như vậy nên lực lượng cách mạng Nhuận Đức chỉ còn một cách bám trụ tại chỗ chứ không thoát ra đường nào được. Năm 1960, sau phong trào Đồng khởi, địch càng tăng cường ruồng bố, tình hình cách mạng càng thêm cam go. Nhiều đồng bào, đồng chí hi sinh. Lực lượng cách mạng ngày càng mất mát…
Trước tình hình đó, Đảng ủy xã Nhuận Đức đã quyết định phải đào địa đạo, lấy đó làm hệ thống trú ẩn và phòng thủ phản công, phòng thủ tiến công. Lúc này ở Nhuận Đức còn một đoạn địa đạo dài trên 500m từ thời kháng chiến chống Pháp còn lại, được khôi phục và nối rộng ra.
Bắt đầu từ năm 1961, xã Nhuận Đức phát động phong trào đào địa đạo. Già trẻ gái trai, nam phụ lão ấu, tất cả không phân biệt thành phần đều rùng rùng lao vào trận mới. Trai tráng từng tổ 3-4 người làm một, thay phiên nhau người trước đào đất, người sau cào đất ra sau, xúc vào ki tre (một loại vật dụng đan bằng tre, dùng để hốt), người trên mặt đất kéo lên.
Khắp các ụ cây, khắp các bìa rừng từng nhóm người lố nhố. Người trước mệt, người sau thay. Người trước ngã, người sau tiến. Người già đan ki, trẻ con múc nước, đàn ông đào, phụ nữ nấu cơm nấu khoai…
Lứa trai tráng ngày đó 16 tuổi như ông Út Kang, 17 tuổi như ông Tư Cậm, 18 tuổi như ông Chín Ảnh… giờ đã trên 60. Đó là những chàng trai đầu tiên cắm nhát cuốc vào lòng đất đào địa đạo giai đoạn chống Mỹ. Vật dụng đào là một lưỡi cuốc cùn, dân địa phương gọi là cuốc ngao, cán ngắn chừng 3-4 tấc. Bắt đầu là đào miệng thí, trổ từ trên mặt đất thẳng xuống như đào giếng.
Nhưng miệng thí rất hẹp, đường kính chừng 6 tấc. Đào sâu xuống 4-5m thì miệng thí trổ ngang. Lúc này cuốc ngao mới phát huy tác dụng: người đào phải làm việc trong tư thế ngồi bệt trên một chân, mò mẫm đào từng nhát cuốc giữa lòng đất tối đen như mực. Một phần vì đào từng đoạn ngắn, nhưng quan trọng hơn là đào hẹp và sâu dưới lòng đất, thiếu dưỡng khí nên một đường hầm thường chỉ có hai người làm việc.
Hai người khác - có khi chỉ một - ở bên ngoài cửa hầm kéo đất lên. Quy cách chuẩn được phổ biến của địa đạo là chiều rộng khoảng 9 tấc, chiều cao khoảng 1,1m. Với kích thước này, người du kích quen thuộc và thông thạo lòng đất có thể khéo léo di chuyển bằng tư thế lom khom nhưng với người lạ thì đó là điều cực kỳ khó khăn.
Bằng kinh nghiệm dân gian, những người đào địa đạo đều linh cảm được mạch nước ngầm ở đâu đó nên thường xác định đường địa đạo luôn cách mạch nước ngầm khoảng 1,8-2m. Mỗi miệng thí cách nhau 10m. Như vậy mỗi tổ đào mỗi bên 5m. “Khi nào “phụp” với nhau (hai đoạn địa đạo thông nhau) thì miệng thí được lấp lại. “Thí” là bỏ đi. Gọi “miệng thí” là vì vậy. Cứ như thế các đoạn địa đạo được nối rộng ra, mỗi ngày một chút.
Lòng địa đạo không thẳng mà ngoằn ngoèo uốn khúc, ngoắt qua ngoắt lại. Ông Út Kang giải thích: là để tránh trái (lựu đạn) của địch. Lắm khi địch dò ra miệng địa đạo, lò dò đuổi theo và tung trái nổ nhưng miểng lựu đạn chẳng ăn thua gì với những ngóc ngách mênh mông trong lòng đất.
Chó Mỹ… cười - “chuột cống” bất lực
Dọc theo trục chính của đường “xương sống” địa đạo, từng tổ du kích sẽ đào thêm những đường xương cá rẽ ra hai bên hoặc chằng chịt hơn nữa. Các đường xương cá này thường là các điểm trú ẩn hoặc ổ chiến đấu cá nhân mà mỗi chiến sĩ du kích quân bảo quản cho riêng mình, chỉ có một mình mình thông thạo, người khác đi vào có thể bị lạc. Các đường xương cá này có khi được bố trí chằng chịt gần nhau, nhiều vách đất chỉ cách chừng 2-3 tấc. Chính nhờ thế nên khi bị lộ hoặc bị tấn công, du kích chỉ cần co chân đạp vách để lần sang đường khác kiểu như “ếch nằm mà”. |
Khi địch phát hiện và dò theo đường hầm đuổi theo, tung lựu đạn hoặc bơm khí độc vào lòng hang thì người du kích chỉ cần giật “nút chai”, đóng địa đạo lại. Sức ép của trái nổ nếu càng mạnh thì càng ép “nút chai” kín hơn địa đạo, không cho khí độc len vào.
Trong chiến dịch mang tên Cedar Fall (Bóc vỏ trái đất) mở màn từ 8-1-1967, địch dùng “đội quân chuột cống” gồm 600 tên lính công binh được tuyển chọn, huấn luyện cho đánh phá địa đạo. “Chuột cống” được phiên thành mỗi tổ 2-4 tên, trang bị đèn pin cầm tay, mặt nạ phòng độc, tiểu liên cực nhanh, lủng lẳng lựu đạn, thuốn sắt, dao găm, máy thổi lùa chất độc… luồn sâu xuống đất.
Thế nhưng gặp phải những “nút chai” thông minh, chúng chỉ phá hủy được vài đoạn địa đạo không đáng kể, lại bị thiệt hại nặng nề. Ở nhiều đoạn cua ngoắt ngoéo du kích còn bố trí mai phục, khi “chuột cống” cầm đèn pin vừa tới là bị xiên hông bằng lao tre hoặc vẩy một viên súng ngắn vào đầu. “Đội quân chuột cống” 600 tên bất lực và thất bại.
Sâu dưới lòng đất thì vấn đề dưỡng khí là điều quan tâm hàng đầu. Hôm trò chuyện với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt, nói về địa đạo ông đã riu ríu mắt: ở dưới đó mau buồn ngủ lắm! Ông Tư Cậm cười ha hả: mát lắm, thông thoáng lắm.
Ông còn cà kê: những ngày trời nắng nóng, tình hình êm, anh em du kích rủ nhau rúc xuống địa đạo nằm cho mát, dĩ nhiên là lỗ mũi cận kề lỗ thông hơi. Lỗ thông hơi trong hệ thống bố trí không dày nhưng đủ cung cấp dưỡng khí cho đạo quân bên dưới.
Không ai tính toán được là cần bao nhiêu lỗ thông hơi cho hệ thống địa đạo, nhưng khả năng kỳ diệu của những người du kích Củ Chi bấy giờ đã làm được điều ấy. Ít thì sẽ thiếu dưỡng khí; nhiều thì dễ tạo cơ hội cho địch phát hiện, nhất là chúng dùng lực lượng quân khuyển - loại becgiê lai chó sói Đức - để đánh hơi phát hiện.
Tôi chui sâu xuống lòng địa đạo: lỗ thông hơi hình phễu, miệng như cái chén ăn cơm úp lại, được xoi thẳng lên trên bằng một khe nhỏ. Miệng lỗ được ngụy trang rất khéo: có thể trổ ra một bụi tre, bụi tầm vông, một gốc cây hoặc một ụ gò mối… Tuy nhiên tất cả các kiểu ngụy trang đó chỉ che được mắt người chứ không giấu được mũi chó. Nhiều tổn thất đã xảy ra.
Người Củ Chi kể rằng bằng kinh nghiệm dân gian, du kích giã nhuyễn ớt, hạt tiêu thành bột rắc bên trên để chó không đánh hơi được. Nhưng khổ nỗi lính Mỹ rồi cũng phát hiện lỗ thông hơi khi thấy bọn quân khuyển… sặc sụa. Cuối cùng du kích phải nhờ người vào nội thành mua các loại dầu tắm, xà bông của lính Mỹ về bôi ở bên trên. Bọn chó Mỹ ngửi thấy mùi “anh em” thì chỉ biết thè lưỡi nhe răng “cười” ngơ ngác...
----------
* Kỳ sau: Đội quân “xuất quỷ nhập thần”
----------------
Tin, bài liên quan:
- Kỳ 5: Củ Chi: từ hầm bí mật đến địa đạo chiến- Kỳ 4: Con sinh ra từ lòng đất- Kỳ 3: 30 nấm mồ tập thể- Kỳ 2: Vịnh Mốc - Cồn Cỏ: hành trình máu!- Kỳ 1: Những ngôi làng bên dưới cuộc chiến
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận