01/09/2004 21:03 GMT+7

Kỳ quan giữa lòng đất thép

ĐẶNG ĐẠI
ĐẶNG ĐẠI

TT - Có một công trình kỳ diệu của nhân dân TP.HCM: địa đạo Củ Chi. Đó là hệ thống đường hầm ngầm trên 200km trong lòng đất; vừa là căn cứ địa, vừa là nơi trú ẩn, vừa là công sự chiến đấu...

o7YUnXyT.jpgPhóng to
Ông Chín Ảnh và lối vào địa đạo ở ấp Bàu Cạp, xã Nhuận Đức, nơi ngày xưa ông từng sống và chiến đấu - Ảnh: Đặng Đại
TT - Có một công trình kỳ diệu của nhân dân TP.HCM: địa đạo Củ Chi. Đó là hệ thống đường hầm ngầm trên 200km trong lòng đất; vừa là căn cứ địa, vừa là nơi trú ẩn, vừa là công sự chiến đấu...

Điều lạ thường là địa đạo nằm giữa lòng địch, bị phong tỏa bởi bốn bề đồn bót và nằm sát nách thủ đô của bộ máy chiến tranh Mỹ - ngụy. Và trên 10.000 chàng trai, cô gái Củ Chi đã đổ máu xương để thành hào thành lũy. Những con người bình dị chân đất ấy đã làm cách nào tạo nên một kỳ quan như thế?...

Nhuận Đức những năm chống Mỹ với hệ thống địa đạo chừng trên 11km, một bộ phận hợp thành của hệ thống địa đạo huyền thoại trên 200km Củ Chi, là tử địa của hàng chục ngàn Mỹ - ngụy. Ông Tư Cậm, nguyên chính trị viên xã đội Nhuận Đức những năm đánh Mỹ, nói chắc: “Ngày nào tụi Mỹ càn vô Nhuận Đức thì thế nào bên kia trái đất cũng có những bà mẹ, bà vợ khóc con khóc chồng”.

Đào hầm suốt... 15 năm

Nhuận Đức ngày xưa không xanh tươi như bây giờ mà trắng xác trắng xơ, lại lọt thỏm giữa bốn bề đồn bót: bót An Nhơn Tây, bót Trung Hòa, bót Phú Hòa Đông, bót cầu Bến Mương, huyện lỵ Củ Chi và sau này là căn cứ Đồng Dù của sư đoàn dù 25 Mỹ “Tia chớp nhiệt đới”. Do vậy khi đi càn, dù xuất phát từ bất cứ hướng nào, địch cũng phải càn qua Nhuận Đức.

Cũng chính ở trong thế “cái túi” như vậy nên lực lượng cách mạng Nhuận Đức chỉ còn một cách bám trụ tại chỗ chứ không thoát ra đường nào được. Năm 1960, sau phong trào đồng khởi, địch càng tăng cường ruồng bố, tình hình cách mạng càng thêm cam go. Nhiều đồng bào, đồng chí hi sinh. Lực lượng cách mạng ngày càng mất mát...

Trước tình hình đó, đảng ủy xã Nhuận Đức đã quyết định phải đào địa đạo, lấy đó làm hệ thống trú ẩn và phòng thủ phản công, phòng thủ tiến công. Lúc này ở Nhuận Đức còn một đoạn địa đạo dài trên 500m từ thời kháng chiến chống Pháp còn lại, được khôi phục và nối rộng ra.

Bắt đầu từ năm 1961, xã Nhuận Đức phát động phong trào đào địa đạo. Già trẻ gái trai, nam phụ lão ấu, tất cả không phân biệt thành phần đều rùng rùng lao vào trận mới. Trai tráng từng tổ 3-4 người làm một, thay phiên nhau người trước đào đất, người sau cào đất ra sau, xúc vào ki tre, người trên mặt đất kéo lên. Khắp các ụ cây, khắp các bìa rừng từng nhóm người lố nhố.

Người trước mệt, người sau thay. Người trước ngã, người sau tiến. Người già đan ki, trẻ con múc nước, đàn ông đào, phụ nữ nấu cơm nấu khoai... Các ấp, các làng hừng hực khí thế cách mạng. Công việc anh hùng đó không chỉ diễn ra một tháng, một năm. Kỳ diệu thay, nó được duy trì liên tục, liên tục suốt 15 năm, bất kể nắng mưa, bất kể mưa bom bão đạn, cho tới ngày cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc dinh Độc Lập.

Chính trong những ngày đào hầm đánh giặc đó, nhiều chàng trai cô gái đã hiểu nhau, thương yêu nhau, lấy nhau để cả nhà cùng đào hầm đánh giặc. Như vợ chồng Chín Ảnh - Chín Lan, lúc đó ông là bí thư xã đoàn, 18 tuổi, bà là ủy viên ban chấp hành, 17 tuổi; hay như các cặp Hai Nên - Hai Dìn; Gình - Sung; Tét - Sa; Quợt - Ghe... Những đôi uyên ương ngày xưa giờ này người còn người mất. Có người vinh danh liệt sĩ anh hùng…

Lứa trai tráng ngày đó 16 tuổi như ông Út Kang, 17 tuổi như ông Tư Cậm, 18 tuổi như ông Chín Ảnh… giờ đã trên 60. Đó là những chàng trai đầu tiên cắm nhát cuốc vào lòng đất đào địa đạo thời chống Mỹ. Vật dụng đào là một lưỡi cuốc cùn, dân địa phương gọi là cuốc ngao, cán ngắn chừng 3-4 tấc.

Bắt đầu là đào miệng thí, trổ từ trên mặt đất thẳng xuống như đào giếng. Nhưng miệng thì rất hẹp, đường kính chừng 6 tấc. Đào sâu xuống chừng 4-5m thì miệng thí trổ ngang. Lúc này cuốc ngao mới phát huy tác dụng: người đào phải làm việc trong tư thế ngồi, mò mẫm đào từng nhát cuốc giữa lòng đất tối đen như mực. Một phần vì đào từng đoạn ngắn, nhưng quan trọng hơn là đào hẹp và sâu dưới lòng đất, thiếu dưỡng khí nên một đường hầm thường chỉ có hai người làm việc. Hai người khác - có khi chỉ một - ở bên ngoài cửa hầm kéo đất lên.

X5Fqc6Mu.jpgPhóng to
Sơ đồ địa đạo Bến Đình ở xã Nhuận Đức - một phần trong hệ thống địa đạo Củ Chi - Ảnh: Đặng Đại
Quy cách chuẩn được phổ biến của địa đạo là chiều rộng khoảng 9 tấc, chiều cao khoảng 1,1m. Với kích thước này, người du kích quen thuộc và thông thạo lòng đất có thể khéo léo di chuyển nhanh nhẹn bằng tư thế lom khom, nhưng đối với người lạ thì điều đó cực kỳ khó khăn.

Đặc biệt là bằng kinh nghiệm dân gian, những người đào địa đạo đều linh cảm được mạch nước ngầm ở đâu đó nên thường xác định đường địa đạo luôn cách mặt nước ngầm khoảng 1,8-2m. Mỗi miệng thí cách nhau 10m. Như vậy mỗi tổ đào mỗi bên 5m. “Khi nào “phụp” với nhau (hai đoạn địa đạo thông nhau) thì miệng thí được lấp lại. Cứ thế các đoạn địa đạo được nối rộng ra, mỗi ngày một chút.

“Xương sống”, “nút chai” và lỗ thông hơi kỳ diệu

Lòng địa đạo không thẳng mà ngoằn ngoèo uốn khúc, ngoắt qua ngoắt lại. Ông Út Kang giải thích: là để tránh trái (lựu đạn) của địch. Lắm khi địch dò ra miệng địa đạo, lò dò đuổi theo và tung trái nổ nhưng miểng lựu đạn chẳng ăn thua gì với những ngóc ngách trong lòng đất.

Dọc theo trục chính của đường “xương sống” địa đạo, từng tổ du kích sẽ đào thêm những đường xương cá rẽ ra hai bên chằng chịt hơn nữa. Các đường xương cá này thường là các điểm trú ẩn, hoặc ổ chiến đấu cá nhân mà mỗi chiến sĩ du kích quân bảo quản cho riêng mình, người khác đi vào có thể bị lạc. Thậm chí, do điều kiện hoạt động bảo mật nên những người du kích đồng chí với nhau, dù trong trường hợp khẩn cấp nào cũng rất ít khi cho đồng đội ẩn náu trong đường xương cá của mình.

Có lần một người bạn chiến đấu trên đường đi công tác về gặp địch càn, ông Út Kang kéo đại xuống đường địa đạo của mình nhưng vẫn buộc đồng chí đó tuân thủ nguyên tắc: “Cho tui “bịt mù” (bịt mắt) anh lại...”. Cuối ngày khi địch rút, ông đưa bạn lên mặt đất, tháo khăn bịt mắt. Các đường xương cá này có khi được bố trí chằng chịt gần nhau, nhiều vách đất chỉ cách chừng 2-3 tấc. Chính nhờ thế nên khi bị lộ hoặc bị tấn công, du kích chỉ cần co chân đạp vách để lần sang đường khác.

Gọi là đúng quy cách chiều ngang, bề cao nhưng ở rất nhiều đoạn sự bố trí về kích thước của địa đạo hết sức lắt léo và thông minh. Ở nhiều đoạn, địa đạo ở ngoài to, sâu vào trong nhỏ lại như toi nơm cá. Ở những đoạn này bên trên được bố trí những khúc gỗ tròn ép sát vách đất, đầu có cột dây thừng, vót thuôn đầu to đầu nhỏ theo chiều tương ứng của địa đạo như cái nút chai.

Khi địch phát hiện và dò theo đường hầm đuổi theo, tung lựu đạn hoặc bơm khí độc vào lòng hang thì người du kích chỉ cần giật “nút chai”, đóng địa đạo lại. Sức ép của trái nổ nếu càng mạnh thì càng ép “nút chai” kín hơn, không cho khí độc len vào địa đạo. Cũng nhờ cái “nút chai” thông minh đó mà năm 1963, khi địch đi càn bắt được một nông dân, tra tấn người này dã man và cột dây vào lưng buộc dẫn đường xuống địa đạo. Du kích địa đạo phát hiện và chờ khi người nông dân vừa qua là giật “nút chai”, cắt dây cứu người.

Trong chiến dịch mang tên Cedar Fall (bóc vỏ trái đất) mở màn từ 8-1-1967, địch dùng “đội quân chuột cống” gồm 600 tên lính công binh được tuyển chọn từ những tên nhỏ thó, huấn luyện cách đánh phá địa đạo. Bọn “chuột cống” phiên thành mỗi tổ 2-4 tên, trang bị mặt nạ phòng độc, tiểu liên cực nhanh, lủng lẳng lựu đạn, thuốn sắt, dao găm, máy thổi lùa chất độc... luồn sâu xuống đất. Thế nhưng gặp phải những “nút chai” thông minh, chúng chỉ phá hủy được vài đoạn địa đạo không đáng kể, lại bị thiệt hại nặng nề. “Đội quân chuột cống” bất lực và thất bại.

xoTOw5Zh.jpgPhóng to
Đang đào địa đạo - Ảnh: tư liệu
Không ai tính toán được là cần bao nhiêu lỗ thông hơi cho hệ thống địa đạo nhưng khả năng kỳ diệu của những người du kích Củ Chi bấy giờ đã làm được điều ấy. Ít thì sẽ thiếu dưỡng khí; nhiều thì dễ tạo cơ hội cho địch phát hiện, nhất là chúng dùng lực lượng quân khuyển - loại becgiê lai chó sói Đức - để đánh hơi phát hiện.

Lỗ thông hơi hình cái phễu, miệng như cái chén ăn cơm úp lại, được xoi thẳng lên trên bằng một khe nhỏ. Miệng lỗ được ngụy trang rất khéo léo: có thể trổ ra một bụi tre, bụi tầm vông, một gốc cây hoặc một ụ gò mối... Tuy nhiên tất cả kiểu ngụy trang đó chỉ che được mắt người chứ không giấu được mũi chó. Nhiều tổn thất đã xảy ra.

Bằng kinh nghiệm dân gian, du kích giã nhuyễn ớt, hạt tiêu thành bột rắc bên trên để chó không đánh hơi được. Nhưng khổ nỗi tụi lính Mỹ ranh ma cũng thừa sức phát hiện lỗ thông hơi khi thấy bọn quân khuyển... sặc sụa. Cuối cùng du kích phải nhờ người vào nội thành mua các loại dầu tắm, xà bông của lính Mỹ về bôi ở bên trên. Bọn chó Mỹ nghe mùi “anh em” thì chỉ biết thè lưỡi nhe răng ngơ ngác.

Hệ thống địa đạo dưới lòng đất còn được kết nối với hệ thống chiến hào chằng chịt trên mặt đất. Dọc tuyến hàng trăm kilômet chiến hào, ở bất cứ đâu cũng có thể gặp những ụ chiến đấu. Giữa các ụ chiến đấu thường là một miệng địa đạo. Từ lòng địa đạo, du kích xuất hiện, len theo chiến hào, dựa vào các ụ chiến đấu tấn công địch. Khi địch phát hiện phản công, lại theo đường hào rút vào lòng đất...

--------------------------------

* Kỳ 2: Đội quân từ lòng đất

ĐẶNG ĐẠI
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên