Trong khi đó, công nghiệp phụ trợ vẫn yếu kém, không thể làm “hệ đệm” và phụ trợ như tên gọi của nó cho các ngành khác.
Sau mấy mươi năm khoác chiếc áo nội địa hóa, được che chắn bằng hàng rào thuế suất nhập khẩu, công nghiệp ôtô trong nước vẫn chỉ đạt trình độ lắp ráp là chính, còn bị chê thua cả Campuchia. Công nghiệp điện tử khởi sắc, đã có những dự án đầu tư tỉ đô của các thương hiệu lớn như Samsung, Intel, nhưng cũng chỉ ở mức gia công. Những mặt hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu như điện tử, dệt may cũng đang “xuất khẩu giùm” nguyên liệu cấu thành của nước ngoài mà chúng ta phải nhập khẩu.
Cho đến nay, VN vẫn hướng đến mục tiêu “cường quốc đóng tàu”, trong khi các cường quốc đóng tàu trên thế giới đã chuyển từ “công nghiệp đóng” sang bán dây chuyền công nghệ và thiết kế để tránh các hệ lụy ô nhiễm môi trường và kiếm lãi “trí tuệ” nhiều hơn. Tất nhiên, bước chuyển đó không thể ngày một ngày hai. Nhưng lấy kinh tế tri thức, quy luật giá trị ra để so sánh những chiếc tàu to và con cá tra VN, có thể đo đếm được hàm lượng chất xám chúng ta tạo ra, lợi nhuận quốc gia chúng ta mang về, hay chỉ là kết tinh của sự gia công trong nền kinh tế cá tra và đóng tàu?
Thị trường hơn 90 triệu dân VN là một thị trường tiêu dùng lớn, cộng với tâm lý xài sang của một bộ phận dân cư là “chiếc bánh ngon” của nhiều nhà sản xuất và thương mại. Ôtô, xe máy, điện thoại di động, hàng điện tử thời thượng mới “ra lò” đều xuất hiện ở VN và không ít đại gia tung tiền. Chiến lược người Việt dùng hàng Việt sẽ thành công hơn nữa nếu Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nội những việc thiết thực hơn là phong trào. Những “miếng ngon” như logistics, khách sạn, quảng cáo... trông hấp dẫn, nhưng chực chờ bên cạnh là các nhà đầu tư ngoại nhiều kinh nghiệm và trình độ hơn ta. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng có chăng nông nghiệp sẽ là chiếc phao cứu sinh cho nền kinh tế. Tuy nông nghiệp là thế mạnh của nước ta được xác định trong chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng “chiếc bánh nông sản” vẫn khó dùng ngay trên quê hương mình, khi xuất ngoại lại bị chèn ép. Đó là tình trạng lặp đi lặp lại của tiêu thụ lúa gạo, cá tra, tôm, cà phê... Những tín hiệu đáng mừng khi các đại gia ngân hàng, bất động sản chuyển hướng đầu tư sang nông nghiệp bằng các dự án nghiêm túc, được đánh giá là khởi đầu cho bước “lột xác” đầu tư. Nhưng đó vẫn còn là “tín hiệu”. “Chiếc bánh nông sản” cần chính sách vĩ mô với tầm nhìn dài hạn hơn. Chúng ta đã xác định một số mặt hàng chủ lực quốc gia như lúa gạo, cá tra... nhưng thực hiện còn chậm và rời rạc, thiếu liên kết tạo sức mạnh. Chỉ riêng khâu giống nông nghiệp, đã có cảnh báo cho hệ lụy khi hội nhập, nông dân ta phải móc túi trả tiền tác quyền giống cây, con ngay trên “vương quốc nông nghiệp” của mình.
Mở cửa cho nước ngoài vào, nhưng phải xác định rõ lộ trình đến khi nào ta sẽ kết thúc vai trò làm thuê, làm gia công, tiến đến làm chủ? Trong khi trình độ quản lý “tầm thấp” khó vượt lên trên sự ma mãnh thương trường của các kiểu chuyển giá, lời thật, lỗ giả, đã không “áp” được nhà đầu tư ngoại thực hiện các nghĩa vụ, thì doanh nghiệp nội chỉ được khuyến khích chung chung, không thúc đẩy phát triển sáng tạo, đầu tư dài hạn, mạnh ai nấy làm, thiếu liên kết tạo sức mạnh. Phần lớn trong số hơn 98% doanh nghiệp nhỏ và vừa ở ĐBSCL phải lo ăn xổi ở thì, đối phó ngắn hạn hơn là chiến lược dài hạn.
Tư duy về lợi thế cần được thể hiện trong một chiến lược quốc gia, vùng miền để tạo ra sức cạnh tranh hơn là quanh quẩn trong địa giới hành chính tỉnh, huyện như vừa qua. “Chiếc bánh nông sản” cần được chế biến ngon hơn, bán giá cao hơn, lãi hợp lý hơn cho những người làm ra nó. Nông sản có được phát huy lợi thế cạnh tranh hay không bằng chính tư duy, tầm nhìn và cách làm. Chiếc bánh ngon của mình cũng có thể thành miếng mồi ngon của thiên hạ!
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận