07/05/2005 15:08 GMT+7

Thơ thời chiến tranh

THANH THẢO
THANH THẢO

TTCN - Tôi nhớ trong bài thơ Một người lính nói về thế hệ mình tôi viết năm 1973 có những chi tiết như thế này:

JiQgzAkS.jpgPhóng to

Những trận đánh ập về đầy trí nhớ/pháo chụp nổ ngang trời từng bựng khói/nhịp tim dập dồn giờ xuất kích đầu tiên/bình tông cạn khô trên nóc hầm nồng khét/những vỏ đồ hộp lăn lóc/cái im lặng ù tai giữa hai đợt bom/một tiếng gà bất chợt/bên bờ kênh hoang tàn.

Nếu không có những chi tiết thực, không tránh né thì làm sao có tác phẩm nghệ thuật, dù đó là bài thơ hay một bộ phim. Cũng trong bài thơ ấy, tôi có viết một câu mà sau khi lần đầu được in trên một tờ tạp chí ở chiến trường, tôi đã bị “hành” tới bến: Thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm/không dựa dẫm những hào quang có sẵn/lòng vô tư như gió chướng trong lành/như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh.

Đúng là thời ấy chúng tôi còn rất trẻ, mà người trẻ thì ít khi, hoặc không muốn và cũng không sống bằng kỷ niệm, dù là kỷ niệm đẹp. Người trẻ luôn phóng chiếu bản thân mình về phía trước, thích dấn thân, thích khám phá cái chưa biết, và cũng không có thời gian để chắt chiu dành dụm những kỷ niệm. Người trẻ như chúng tôi hồi ấy cũng xa lạ với sự dựa dẫm, dù là dựa dẫm những hào quang của cha anh mình, “những hào quang có sẵn”. Có gì ghê gớm lắm đâu nhỉ?

Với chúng tôi ngày ấy, thơ là thiêng liêng, nhiều khi là nơi duy nhất mình có thể tỏ bày, có thể gửi gắm, có thể một mình tâm sự với mình. Trong balô những người lính thuở ấy, nhất là những người lính quê miền Bắc hoặc ra đi từ miền Bắc, thường có một quyển sổ nhỏ chép những bài thơ mà họ yêu thích. Có lẽ chưa thời nào mà thơ được yêu thương như thế, được gần gũi như thế với số phận con người, với cái sống và cái chết của người lính, với nỗi đau và tình yêu khát khao được chia sẻ.

Chính nhu cầu được cộng cảm đã đưa thơ đến với con người. Nhưng ở những bài thơ thời chiến tranh sáng thăm thẳm như vầng trăng trong hố bom, nhà thơ nhiều khi phải góp máu cả một đời mình. Chỉ cho một bài thơ. Nhớ máu của Trần Mai Ninh, chẳng hạn. Màu tím hoa sim của Hữu Loan, chẳng hạn. Những bài thơ trước lúc hi sinh của Lê Anh Xuân, chẳng hạn. Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ, chẳng hạn. Và cả những bài thơ thời ấy chưa được “chính thống” thừa nhận, nhưng chúng vẫn sống vì được người đọc chấp nhận, được những người lính đưa vào balô của họ cùng những gói lương khô và mắm ruốc.

Chiến tranh không làm nhiệm vụ sàng lọc thơ, nhưng chiến tranh đẩy sâu thơ về phía con người, dìm thơ vào số phận con người. Năm ngoái, khi dự Liên hoan thơ quốc tế lần thứ 35 tại Rotterdam - Hà Lan, tôi đã nghe ban tổ chức đặt một câu hỏi khá thú vị: “Nếu phải một mình lạc ra ngoài hoang đảo, bạn sẽ mang theo cuốn sách nào?”.

Dĩ nhiên nhiều nhà thơ trả lời là mang theo một tập thơ hoặc một bài thơ. Tôi nghĩ, từ “hoang đảo” ở đây phải được hiểu đồng nghĩa với nỗi cô đơn. Khi cô đơn, bạn mang theo trong tâm hồn mình cái gì? Những toan tính về quyền lực hay những thèm muốn về tiền bạc chắc khó lọt vào tâm hồn bạn những lúc ấy. Còn gì thích hợp bằng một bài thơ bạn có thể sẻ chia, hay một bài hát nằm sâu trong tầng nhớ quên của bạn chợt lên tiếng.

Mấy ngày gần đây, một người bạn Việt của tôi ở Mỹ - một người đã sống trọn tuổi thơ của mình trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc - thường mail cho tôi nói anh vẫn mở Đài phát thanh Tiếng nói VN vì thèm nghe lại vài bài hát thời chống Mỹ, những bài hát đã “đi suốt tuổi thơ” anh. “Ở xa xứ mà nghe một bài hát mình thuộc nằm lòng thời ấy coi như mình được an ủi. Đọc một bài thơ hay của thời ấy cũng vậy. Chẳng ai thoát khỏi quá khứ của mình đâu”.

Bây giờ thì tôi hiểu: vì sao nỗi đau và niềm tự hào vẫn có thể đi chung với nhau, vẫn được thể hiện cùng một lúc nơi một con người. Chẳng ai muốn đánh Mỹ hay “đánh” bất cứ ai để có được niềm tự hào, nhưng khi điều không hề mong muốn xảy đến, khi đất đai của ông cha và danh dự của gia đình, của bản thân bị xúc phạm, khi phải chấp nhận chiến tranh, thì khi đó nỗi đau và niềm tự hào có thể hiện lên cùng một lúc.

Thơ thời chiến tranh ra đời ngay những lúc ấy. Thơ trong chiến tranh lúc giống như người yêu, lúc giống như người đồng đội, lúc lại giống ánh mắt buồn thăm thẳm của mẹ ta. Thơ an ủi con người trong chiến tranh không theo kiểu cha đạo ban phước cho con chiên hay thủ trưởng động viên lính. Nó bất chợt như bàn tay mẹ xoa trên lưng con một chiều trước hôm tiễn biệt. Nó như giọt nước mắt người ta yêu rơi lặng lẽ lúc đoàn tàu chở quân hú lên hồi còi dài trong một buổi sáng mùa đông giáp tết năm nào.

Theo nhịp rung đều đều của con tàu chở quân ra mặt trận, những dòng thơ mập mờ ẩn hiện. Thơ giúp ta nén lòng giây phút ấy. Cảm ơn thơ, nếu không có thơ, tôi chẳng biết mình sẽ trở về thế nào sau chiến tranh, sẽ sống thế nào những năm đầu hòa bình hết sức nghiệt ngã. Dẫu cho tới bây giờ, tôi vẫn không phải là người “sống bằng kỷ niệm”, nhưng…

THANH THẢO
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên