![]() |
Đã có may mắn được đọc bản gốc, khi nghe tin Mật mã Da Vinci được NXB Văn hóa Thông tin mua bản quyền và xuất bản hoàn toàn hợp pháp theo Công ước Berne, tôi mừng rỡ mua một cuốn về với ý định cho những người thân cùng đọc. Nhưng thế chỗ vào niềm hào hứng ban đầu là sự thất vọng ngay sau đó và rồi biến thành nỗi bức xúc khi phát hiện ra đằng sau chiếc bìa cứng bóng láng và những trang mực in trên giấy trắng muốt là một bản dịch với chất lượng quá thấp.
Vẫn biết dịch sách văn học là việc không đơn giản, nhưng bản dịch này đã mắc những lỗi vô cùng sơ đẳng mà một người có vốn tiếng Anh khiêm tốn như tôi cũng có thể phát hiện ra.
Để khách quan, tôi sẽ trích dẫn cả phần tiếng Anh và tiếng Việt, phần in đậm là phần dịch lỗi, phần mở ngoặc và in nghiêng là phần tự ý sửa lỗi theo ý kiến chủ quan của tôi. Phần chú thích số trang, dòng lấy theo bản dịch.
Cũng xin lưu ý, tôi chỉ có ý định sửa lỗi và hoàn toàn không có tham vọng sửa văn dịch mặc dù chúng khá lủng củng và nhiều khi tối nghĩa. Do phạm vi hạn hẹp của bài viết và cũng chưa có thời gian đọc toàn bộ bản dịch, tôi chỉ xin được mạnh dạn điểm qua một số lỗi cơ bản, và đại thể chia chúng thành ba loại như sau. Mời các bạn tham khảo.
1. Lỗi về từ vựng:
* He reminded himself, however, that killing Langdon would be a generous fate compared to the misery about to be communicated by Bezu Fache and the French prison system.
Tuy nhiên, tự bản thân anh nhắc nhở mình rằng giết Langdon sẽ là một ân huệ lớn của số phận so với sự bí ẩn mà Bezu Fach định nói và hệ thống nhà tù Pháp. (sự khốn khổ được ban tặng bởi Bezu Fache và hệ thống nhà tù Pháp - nhầm lần giữa misery và mystery).
(Chương 30, trang 150, dòng 9)
* “Opus Dei is a personal prelature of Vatican City, and His Holiness can disperse monies however he sees fit. No law has been broken here.”
"Opus Dei là tổng giám mục (một bộ phận tôn giáo) của thành phố Vaticăng, và sự linh thiêng của ngài (Đức Giáo hoàng) có thể giải ngân được bất cứ lúc nào mà ngài thấy thích hợp. Ở đây hoàn toàn không có gì phạm pháp cả."
(Chương 41, trang 205, dòng 28)
* When I retire, Vernet told himself, I will fill my cellar with rare Bordeaux...
Vernet tự nhủ, khi ta về nghỉ hưu, ta sẽ đổ đầy các tế bào (hầm rượu - nhầm lẫn giữa cell và cellar) của ta bằng loại rượu Bordo quý giá
(Chương 43, trang 215, dòng 9)
* "As any Aramaic scholar will tell you, the word companion, in those days, literrally meant spouse"
"Bất kỳ một học giả Aramaic nào cũng sẽ nói cho cô biết, ngày nay (thời đó) từ bạn đồng hành theo nghĩa đen có nghĩa là người vợ hoặc người chồng"
(Chương 58, trang 300, dòng 27)
* “... might I offer a suggestion for all of you. Without being so bold as to condone premarital sex, and without being so naive as to think you’re all chaste angels, I will give you this bit of advice about your sex lives"...
"... có lẽ tôi sẽ đưa ra một gợi ý cho tất cả các bạn. Không phải quá táo bạo để dung thứ giới tính nguyên thủy (tình dục trước hôn nhân - nhầm lẫn giữa premarital và primary) và cũng không quá ngờ nghệch để nghĩ rằng tất cả các bạn đều là những thiên thần trong trắng, tôi đưa ra cho các bạn điều này như một lời khuyên về đời sống tình dục"...
(Chương 74, trang 374, dòng 12)
* Andre Vernet, according to official records, was a model citizen.
Andre Vernet, được bổ sung vào hồ sơ chính thức (theo như hồ sơ chính quyền), là một công dân hiện đại. (công dân kiểu mẫu - nhâm lẫn giữa model và modern).
(Chương 87, trang 430, dòng 6)
* Rosslyn Chapel’s entrance was more modest than Langdon expected. The small wooden door had two iron hinges and a simple, oak sign.
Lối vào nhà thờ Rosslyn hiện đại hơn (khiêm nhường hơn - nhầm lẫn giữa modest và modern) Langdon nghĩ. Cánh cửa nhỏ bằng gỗ có hai bản lề bằng sắt và một cái tên đơn giản.
(Chương 104, trang 510, dòng 24)
* “For others, it is the quest for lost documents and secret history..."
"Đối với những người khác, đó là yêu cầu (cuộc tìm kiếm - nhầm lẫn giữa quest và request) đối với những tài liệu bị mất và lịch sử bí mật..."
(Chương 105, trang 522, dòng 11)
2. Lỗi về ngữ pháp:
* “Considering what you are asking of me,” Aringarosa countered, “What I do with this money is not your concern.”
"Bất kỳ điều gì ông cũng phải cân nhắc kỹ càng trước khi hỏi tôi," ("Về việc ông đang hỏi tôi, ") Aringarose phản đối, "Tôi làm gì với khoản tiền này không can hệ gì đến ông."
(Chương 41, trang 205, dòng 34)
* Slowing Remy down had become Sophie’s task.
Dần dần, Remy (Cản bước Remy) trở thành nhiệm vụ của Sophie.
(Chương 88, trang 435)
* Kidnapping Teabing had not been part of the plan, and deciding what to do with him posed a new problem
Việc bắt cóc tống tiền Teabing là một phần trong kế hoạch (không nằm trong kế hoạch) và quyết định làm gì với ông ta sẽ tạo ra một vấn đề mới.
(Chương 91, trang 442, dòng 25)
* Showing his face could not be avoided, Silas thought. Remy did what he had to do. He saved the keystone.
Biểu hiện trên nét mặt (Việc lộ diện) là không thể tránh được, Silas nghĩ. Remy đã không làm việc mà hắn phải làm. Hắn ta giữ viên đá đỉnh vòm. (Remy đã làm những gì buộc phải làm và hắn đã cứu được viên đá đỉnh vòm.).
(Chương 91, trang 442, dòng 33)
* “You opened it. Where… is the map?”
"Anh hãy mở nó ra... nơi đó... có chứa một chiếc bản đồ?" ("Thì ra anh đã mở nó ra rồi. Vậy... chiếc bản đồ ở đâu? ”)
(Chương 101, trang 501, dòng 2)
* “Yes, I’m positive I have seen these!”
“I don’t doubt you’ve seen them,” Langdon said, “but it wasn’t necessarily here. ”
"Tôi chắc chắn. Tôi đã nhìn thấy chúng!"
"Tôi không nghi ngờ việc cô đã nhìn thấy chúng", Langdon nói "nhưng điều đó không cần thiết lúc này." (nhưng đâu nhất thiết phải ở đây - ám chỉ việc cô có thể nhìn thấy chúng ở những nơi khác)
(Chương 104, trang 512, dòng 16)
3. Lỗi về cách diễn đạt:
* Hold on, Robert. Almost there
Cố lên, Robert. Hầu như chỉ còn ở đó thôi. (Sắp xong rồi.)
(Chương 30, trang 151, dòng 31)
* “Amazing, isn’t it?” Sophie whispered.
Langdon glanced up. “I don’t know. What the hell is it? ”
"Ông ngạc nhiên lắm có phải không?" Sophie thì thầm
Langdon ngước mắt nhìn: "Tôi cũng không biết nữa. Địa ngục là thế này sao?" ("Nó là cái quái gì thế ?")
(Chương 47, trang 237, dòng cuối)
* “Stop! I will fire!”
“Go ahead,” Teabing said without breaking stride or glancing back.
"Đứng lại! Tôi sẽ bắn!"
"Hãy bước lên phía trước," (Xin mời,) Teabing nói mà không thèm dừng bước hay nhìn lại.
(Chương 88, trang 299, dòng 13)
* It had been hours, and the operation had veered wildly off course. Now, at last, it seemed to be back on track.
Chiếc xe đã đi nhiều giờ và cuộc hành trình (Đã mấy giờ đồng hồ, và kế hoạch) đổi hướng liên tục. Bây giờ, nó dường như quay trở lại con đường mòn. (cuối cùng thì mọi việc dường như đâu lại vào đó.)
(Chương 91, trang 442, dòng 1)
![]() |
"Anh sẽ gia nhập vào hàng ngũ của những con người mà anh mơ ước từ lâu - Da Vinci, Botticelli, Newton - mỗi người trong số họ đang được tôn kính ngay dưới chân anh..." ("họ đều sẽ rất vinh dự được vào địa vị của anh lúc này...")
(Chương 99, trang 483, dòng 4)
* The Temple Church was the perfect location to steal the keystone from Robert and Sophie, and its apparent relevance to the poem made it a plausible decoy.
Đền thờ là vị trí hoàn hảo để đánh cắp viên đá đỉnh vòm từ Robert và Sophie. Sự thích ứng rõ ràng đó được tạo ra một cách nên thơ, điều đó như một cạm bẫy hợp lý. (Việc liên quan tới bài thơ mật mã đã biến nó thành một chiếc bẫy hợp lý)
(Chương 99, trang 484, dòng 17)
* “Jacques reported to the police that your brother and I had been in the car… our two bodies apparently washed off in the current... Jacques, being a man of prominence, did not have the luxury of disappearing.It only made sense that Sophie, being the eldest, would stay in Paris to be taught and raised by Jacques, close to the heart and protection of the Priory.”
Jacques thông báo với cảnh sát rằng em trai cháu và bà cũng ở trong chiếc xe đó... thân thể hai chúng ta đã được tắm gội sạch sẽ vào lúc đó (dường như thi thể hai chúng ta đã bị dòng nước cuốn trôi)... Jacques là một người đàn ông giản dị, chẳng hề có một thứ xa xỉ gì. (Jacques, là một người khá nổi tiếng nên không thể dễ dàng biến mất - ý nói không thể khai báo bị chết trong tai nạn.)Ông chỉ có một cảm nhận nhạy bén rằng Sophie, là người lớn tuổi hơn, (Và sẽ hợp lý nếu Sophie, đứa cháu lớn) sẽ ở Paris để Jacques dạy dỗ và nâng đỡ, gần gũi với ông và sự bảo vệ của Hội Tu viện."
(Chương 105, trang 520, dòng 22)
* “Maybe you’re misreading its meaning. Remember, the Grail can be deceptive. As could my late husband. ”
“But how much clearer could he be ?” he asked.
"Có thể ngài đang đọc sai nghĩa của nó. Nhớ rằng, Chén Thánh có thể làm người ta lầm lẫn. Như là chồng tôi đã nhầm." (Như chồng tôi đã làm vậy - ý nói chồng tôi đã làm anh nhầm lẫn)
"Nhưng ông ấy có thể thấy rõ hơn chứ?" (Lẽ nào ông ấy còn rõ ràng hơn được? - ý nói ông ta đã quá rõ ràng) ông hỏi.
(Chương 105, trang 525, dòng 12)
Lẽ nào sau khi "chiến đấu ngày đêm" để có được bản quyền, thì phần việc dịch thuật vô cùng quan trọng lại bị NXB buông xuôi? Được biết, trong lần in đầu tiên, NXB đã phát hành 3.000 cuốn và dự kiến có thể tái bản để đưa số phát hành lên 20.000 cuốn. Là độc giả, tôi mong rằng, trong những lần tái bản tới đây, NXB Văn hoá Thông tin cần xem xét lại chất lượng bản dịch và phải có những sửa chữa để bảo đảm nội dung trung thành với nguyên tác.
Bởi nếu không, sẽ tiếp tục có bao nhiêu bạn đọc chịu thiệt vì phải trả tiền cho bản dịch chưa đạt chất lượng và mất cơ hội tiếp xúc với những giá trị đích thực của một tác phẩm văn học thuộc loại hấp dẫn nhất trên thế giới?
Trích ý kiến bạn đọc TTO:
Dịch giả dường như không được thông thạo Anh ngữ lắm nên những từ hay cấu trúc đơn giản đến như "true identity" và "I beg your pardon" bị biến thành "đức tính trung thành" và "Tôi mong nhận được sự thứ lỗi của ông"...
Thật đáng tiếc cho các độc giả VN, những người đã háo hức chờ mong sự xuất hiện của cuốn best-seller Da Vinci Code bản tiếng Việt, khi mua phải một dạng "hàng chợ" như vậy.
Hi vọng trong tương lai có một NXB khác sẽ giới thiệu lại tác phẩm này thông qua một bản dịch có chất lượng hơn
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận