26/09/2008 08:07 GMT+7

Ký sự sông Hồng - Kỳ 5: Làng cổ ven sông

QUỐC VIỆT
QUỐC VIỆT

TT - Cùng dòng chảy của nền văn minh sông Hồng rực rỡ, nhiều làng Việt cổ đã xuất hiện từ hàng ngàn năm. Trên miền sơn cước Lào Cai - Yên Bái, làng mạc đôi bờ sông Hồng còn thưa thớt. Nhưng xuống đồng bằng, làng mạc đông đúc, trù phú hơn. Trải dọc đôi bờ, nhiều làng cổ còn tràn ra cả ngoài đê sông, tồn tại cùng con nước lên xuống suốt hàng ngàn năm qua.

Kỳ 1: Ngã ba sông huyền thoại Kỳ 2: Thương khách sông Hồng Kỳ 3: Kinh đô đầu tiên Kỳ 4: Cồn bãi sông Hồng

5VzleaQk.jpgPhóng to
Làng cổ Vĩnh Phúc bên bờ sông Hồng - Ảnh: QUỐC VIỆT

Ngàn năm soi bóng nước

Trên đường khám phá sông Hồng, tôi dừng lại làng Tứ Xã mà xưa gọi là Kẻ Gáp, huyện Lâm Thao, Phú Thọ. Một trong những làng cổ nhất lưu vực sông Hồng đã được chứng minh qua các cổ vật từ cách nay 2.300-3.000 năm trong di tích khảo cổ Gò Mun vùng này. Nằm giữa đồng lúa, ngôi đền cổ Xa Lộc như thay cho cổng làng khuất dưới những tán cổ thụ đã hàng trăm năm tuổi. Đền thờ Lân Hổ, tướng quân có công với nước.

Ông từ già Khổng Minh Di kể: “Thời nhà Trần, giặc Nguyên Mông tràn sang. Tình thế nguy nan, vua Trần tìm người tài cứu nước. Một người tên Lân Hổ xin lãnh sứ mạng. Ông chiêu tập binh mã, kiên cường tiêu diệt giặc bảo vệ làng. Sau khi bị thương ở cổ, Lân Hổ vẫn cùng quân dân đẩy lùi kẻ giặc rồi mới hi sinh”. Đến nay, mộ Lân Hổ vẫn còn được hương khói.

Trước khi tôi bắt đầu hành trình khám phá sông Hồng, tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện đã khuyên tôi nên tìm hiểu kỹ các làng cổ ven sông. Nghiên cứu nhiều về văn hóa dân gian, lại người quê làng Đường Lâm trầm mặc bên bờ sông Hồng, tiến sĩ Diện hiểu dòng sông Hồng đã bồi đắp sức sống cho các ngôi làng. Và ngược lại, chính cuộc sống của người dân đôi bờ cũng truyền thêm sinh khí cho trường giang.

Kể chuyện xưa, nhiều cụ già Tứ Xã rất tự hào làng cổ quê mình. Người viết sử làng Dương Văn Thâm, nay đã 94 tuổi, tâm sự rằng quê nghèo sống nghề lúa cùng canh cửi, nhưng có nhiều nét văn hóa riêng và sinh được nhiều người tài. Chính nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã chọn một người làng là ông Tổng Cóc làm chồng. Ông là hậu duệ ông nghè Nguyễn Quang Thành đã tự học thi đỗ tiến sĩ thời Lê Chính Hòa, nay vẫn còn danh trên bia số 80 ở Văn Miếu Quốc Tử Giám.

Tại làng còn có miếu Trám, cổ miếu đặc biệt thờ linh vật sinh thực khí là chày gỗ và mo cau khoét lỗ tượng hình cho vật nòi giống của đàn ông và đàn bà. Ở xóm On, miếu thờ Đức Bà thì như phúc thần đồng áng và chài lưới trên sông... Hàng ngàn năm qua, làng xưa đã nhiều lần đổi tên (và cũng phai mờ nhiều dấu vết), nhưng người làng vẫn ý thức giữ gìn truyền thống.Việc thờ cúng của họ không chỉ tâm linh mà còn để ghi nhớ cội nguồn.

Xuôi về ngã ba sông Bạch Hạc, tôi đi đò sang Hà Tây, ghé Cổ Đô, làng khoa bảng của huyện Ba Vì cũ, nằm bên bờ sông Hồng giao với sông Lô và sông Đà. Dưới tán cây cổ thụ xanh tốt cao cả trăm mét bên bờ đê, khói cơm chiều lãng đãng trên các mái ngói cổ của làng. Trên đường quê, các chú bé đang thong thả dẫn trâu về chuồng... Dấu vết khảo cổ như khu mộ táng niên đại thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đã nói làng Cổ Đô có từ triều đại Hùng Vương. Đặc biệt, đền Thiếu Hoa công chúa, con vua Hùng thứ 9, ở làng cũng khẳng định điều này.

Tương truyền nàng từ kinh đô Phong Châu vượt sông sang Cổ Đô dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa và lụa làng này vang bóng một thời tiến vua. Theo dòng thời gian, Cổ Đô cũng nhiều lần thay đổi tên như Cổ Cẩm, Cổ Sắt, Yên Đô. Bao đời dân làng vẫn tin rằng thế phong thủy ở đây cho cuộc sống con cháu ngàn đời sung túc, thuận hòa. Các cụ già làng còn kể chuyện Hồ Quý Ly đã chọn nơi này xây thành. Chính thế yết hầu ngã ba sông đã lọt vào mắt ông để xây pháo đài trấn giữ vùng Sơn Tây, Thăng Long.

Địa linh sinh nhân tài

TKKIEUuQ.jpgPhóng to
Đình làng cổ Đường Lâm - Ảnh: Dương Minh Long

Những ngày tìm hiểu làng cổ đôi bờ sông Hồng, chuyện làm tôi chú ý nhất là rất nhiều nhân tài sinh ra từ dải đất được phù sa bồi đắp này. Sông Hồng lúc hiền hòa bồi đắp phù sa, khi cuồng nộ tàn phá làng quê. Nhưng người ta vẫn tin dòng sông này chính là “long mạch” sinh nhân tài.

Kể từ năm 1484, đời Lê Thánh Tông, khi Nguyễn Sư Mạnh đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ, hậu duệ ông ở làng Cổ Đô đã trải nhiều đời nhưng vẫn tự hào vị tổ tiên danh tiếng. Được phong thượng thư Bộ Lễ, khi đi sứ Trung Quốc, ông mặc áo hở bụng vào chầu vua Minh và nói hong bồ chữ đầy bụng. Vua Minh muốn khép tội, bắt ông phải chép lại thiên Vi chính sách Luận ngữ chỉ trong 30 ngày, việc xưa nay chưa ai làm nổi. Ông ung dung rong chơi gần hết tháng, đến gần cuối mới chịu viết và hoàn tất đúng hẹn. Vua Minh phục, phong ông làm thượng thư nước mình.

Từ đường họ Nguyễn ở Cổ Đô nay vẫn còn đậm nét khắc “Lưỡng quốc thượng thư” ghi nhớ tài năng tổ tiên. Làng Cổ Đô bên sông còn sinh được thêm Nguyễn Bá Lân, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm 31 tuổi (1731) và được phong làm thượng thư của cả sáu bộ. Ngoài tài năng văn chương (tác giả Phú ngã ba Hạc lừng danh), Nguyễn Bá Lân nổi tiếng thanh liêm, từng khí khái làm bẽ mặt Trịnh Sâm giữa triều. Hàng trăm năm qua, Cổ Đô vẫn tiếp tục lừng danh đất học. Gần đây, Cổ Đô còn được gọi là làng vẽ với hàng chục họa sĩ tên tuổi, tranh của nhiều người được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia và nước ngoài.

Xuôi sông Hồng, tôi về “vùng đất hai vua”, làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây. Người ta đã biết Đường Lâm với nhà cổ hàng trăm năm tuổi, nhưng ít ai rõ đất này sinh nhiều nhân tài. Lúc nhỏ, cậu bé Phùng Hưng chăn trâu ở Đường Lâm đã giết được hổ dữ, rồi chiêu tập binh mã đánh tan thành Tống Bình (Hà Nội), xưng làm Bố Cái Đại Vương, giành độc lập cho nước Việt năm 791. Đường Lâm sau lại sinh thêm Ngô Quyền, danh tướng làm nên chiến trận Bạch Đằng Giang tự hào trong lịch sử vệ quốc vĩ đại. Năm 1637, Thám hoa Giang Văn Minh, người Đường Lâm, được chọn chánh sứ sang triều Minh. Ông đã làm cả triều đình này cúi đầu uất hận khi đối câu Cột đồng trụ nay rêu đã phủ xanh của họ bằng câu Bạch Đằng Giang xưa máu thù còn loang đỏ...

Lưu vực sông Hồng còn mang trong mình nhiều làng cổ khác như Xuân Lũng (Phú Thọ), Đông Ngạc, Cổ Bi (Hà Nội), Hành Thiện (Nam Định)... Mỗi làng có tích khai lập và nhân tài riêng, nhưng đều giống nhau lòng tự hào quê mình. Mỗi khi có sự kiện gì hay con cháu đỗ đạt, người làng lại đến từ đường, đình đền xưa, thắp hương vái lạy để tỏ lòng biết ơn và nhắc nhở con cháu truyền nhớ tổ tiên mình.

---------------------------------------------

Chảy cùng lịch sử nước Việt, sông Hồng kể lại nhiều sự kiện bi hùng của tổ tiên và đem đến niềm vui sống cho người dân đôi bờ thông qua các lễ hội.

Kỳ tới:Dòng sông lễ hội

QUỐC VIỆT
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên