16/04/2010 06:12 GMT+7

Hiện tượng ba sa - Kỳ 3: Từ "mụ tây" tới "mụ vườn"

QUANG VINH - PHƯƠNG NGUYÊN
QUANG VINH - PHƯƠNG NGUYÊN

TT - Năm 1993 Philippe Caco tốt nghiệp Ðại học Nông nghiệp Paris (khoa thủy sản), đã quyết định đến VN nghiên cứu cách cho cá ba sa sinh sản. Đến làng bè Châu Đốc (An Giang), anh bất ngờ với những làng bè sung túc trên sông Hậu.

HEgwqOoJ.jpgPhóng to
Một con cá tra mẹ được nhóm “mụ vườn” ở xã Vĩnh Hòa thăm trứng định kỳ - Ảnh: Q.Vinh

Kỳ 1: Từ cá trôi sông đến làng bè Kỳ 2: Rời chiếc bè treHai chàng trai Pháp ở làng bè

Công nghệ “tây”

Philippe đến ngay lúc làng bè đang có tin Công ty Agifish An Giang đã thay sản phẩm xuất khẩu con tôm biển khan hiếm bằng con cá ba sa giàu tiềm năng hơn.

Nhiều người đã đón đầu cơ hội làm ăn lớn, đầu tư mới nhiều nhà bè cá bề thế trị giá hàng tỉ đồng. Cá giống ba sa trong thiên nhiên không đủ cung ứng cho nhu cầu làng bè và trở nên đắt đỏ. Một con cá bụng - cá ba sa con - bằng ngón tay có lúc vọt lên 5.000 - 7.000 đồng.

Thông tin Philippe đến làng bè tìm cá bố mẹ đã được người dân các nơi mừng rỡ. Bà con ở vùng hạ nguồn sông Mekong đã đem đến tặng Philippe những con cá bụng to 5-7 kg có dáng đẹp để tuyển chọn và thử nghiệm. Hai tháng ở làng bè, Philippe và kỹ sư cộng sự đã tuyển chọn ngẫu nhiên được 200 con cá ba sa bố mẹ đem về ao Trường đại học Cần Thơ nuôi vỗ.

“Trên cơm dưới cá”

Ông Nguyễn Hữu Khánh - nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nguyên chủ tịch Hội Nghề cá VN - lý giải về “hiện tượng ba sa”: “Vào cuối những năm 1980 khi cây lúa đã phát triển mạnh, chúng tôi nghĩ đến câu nói của cha ông “trên cơm dưới cá” để mở hướng phát triển mới. Trên đã có lúa rồi, tại sao không phát triển con cá đang có lợi thế vùng nuôi? Lợi thế từ tay nghề nuôi cá ba sa, cá tra đến nhờ vả sự “mai mối” của bà con Việt kiều để đưa thị trường này ra thế giới”.

Cuối thập niên 1990, An Giang gặp khó khăn về nguồn cung ứng cá giống. Sau đó tỉnh đã chủ động phối hợp với các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu để đến năm 2001 sinh sản nhân tạo cá.

Năm 1995, tỉnh An Giang sản xuất chỉ được khoảng 50.000 tấn cá nhưng đến nay sản lượng này là 180.000 tấn. Khó có ngành kinh tế nào có được sự phát triển mạnh mẽ như vậy!

Đến tháng 6-1995, Philippe và nhóm cộng sự của anh đón nhận thêm một người bạn mới - Marc Campet - vừa tốt nghiệp Ðại học Thủy sản Pháp.

Đến làng bè và làm việc thuận lợi tại một phòng thí nghiệm ngay trên nhà bè của Công ty Agifish An Giang, Philippe và Marc đã áp dụng phương pháp cấy chip điện tử với mã số vào thân cá để kiểm tra, phân biệt, thay cho cách dùng phẩm mực trước đó.

Hàng tháng trời cứ cách 10 ngày một lần nhóm “bà đỡ” lại vớt cá lên thăm trứng chích hormon kích dục tố, tìm mọi cách nhưng vẫn không thấy cá mẹ rụng trứng. Thế rồi trong một lần kiểm tra, Philippe bất ngờ thấy bụng một con cá phình to. Tìm dò mã số thì biết đây chính là con cá của cư dân làng bè tặng anh.

Cá mẹ được đưa lên khay và kích đẻ, bụng nó bắt đầu căng phồng lên. “Bà đỡ” Philippe nhẹ tay vuốt dạ dưới con cá mẹ, từ bụng dưới con cá phụt ra tia trứng vàng. Đến lần tiếp theo trứng cứ phun vào chậu chứa 75 gam trứng. Sau đó nhóm “bà đỡ” Pháp - Việt cho trứng thụ tinh nhân tạo. Khoảng 24 giờ sau cá con lúc nhúc xé màng và đàn cá li ti mới bắt đầu chuyển mình.

“Trứng thành cá rồi” - cả nhóm “bà đỡ” cùng Philippe và Marc đã vui mừng ôm nhau chúc mừng thành công mà người dân làng bè mong đợi.

Philippe và Marc đã áp dụng kỹ thuật cho cá ba sa và cá tra sinh sản nhân tạo, ương nuôi cá bột cho đơn vị hợp tác là trại giống Mỹ Châu (Công ty Agifish An Giang).

Qua tay nông dân Việt

Những nông dân cố cựu ở vùng sản xuất cá giống Hồng Ngự (Đồng Tháp) cho biết trại cá giống Mỹ Châu thời gian đầu là đơn vị độc quyền tiếp nhận công nghệ sinh sản cá tra giống và bán cho dân.

Lợi nhuận từ việc sinh sản cá giống nhân tạo là rất lớn. Nhiều nông dân thức thời đã nhanh chóng tìm đến trại cá giống để học cách cho cá đẻ nhưng bất thành. Phải đến một năm sau đó công nghệ cho cá sinh sản nhân tạo mới được “rò rỉ” ra bên ngoài khi các kỹ sư nơi đây trở thành những người thầy giúp nông dân.

Ông Út Que, chủ cơ sở sản xuất cá tra giống, nhà ở ngay bến đò xã Phú Thuận (Đồng Tháp), đưa chúng tôi đi thăm cơ ngơi sản xuất cá giống gồm ao nuôi hàng ngàn con cá bố mẹ thuần thục, và khu vực sinh sản cho cá.

Cơ sở được đầu tư khá bài bản, từ hệ thống ống dẫn nước, bồn ấp trứng đến khay đẻ cho cá đều được làm theo quy trình khá hiện đại. “Nhưng để học được nghề cho cá đẻ, nói tắt là “đẻ” cá thì nông dân như tụi tui phải mời kỹ sư về tầm sư học nghề. Học theo kiểu cầm tay chỉ việc, thầy chỉ một mình ráng học lóm tới mười, phải ráng moi cho hết các ngón nghề từ nuôi vỗ cá bố mẹ đến sử dụng thuốc kích dục, thao tác thăm trứng và vuốt tay ép bụng cá cho trứng phun ra... Các nhà khoa học đã có công nghiên cứu thì mình ráng học để mang lại cái lợi cho mình”.

Út Que còn nói để học được nghề này ông phải chia lợi nhuận 6:4 cho người dạy. Đó là nguồn tiền thu được sau khi cho cá đẻ thành công và bán được cá giống trong suốt thời gian học nghề 3-4 tháng.

Còn ông Đào Thanh Khiết, 54 tuổi, ấp Phú Hòa, xã Phú Lâm, huyện Phú Tân, An Giang, cho biết ông đã phải trả cho kỹ sư thủy sản 5 lượng vàng để học nghề “đẻ” cá tra.

Học nghề “đẻ” cá lắm công phu. Đó là học cách chọn cá bố mẹ thuần thục cho đẻ trứng được trên 3 năm tuổi, phải đi săn tìm cá bố mẹ có ngoại hình hoàn chỉnh, da bụng mỏng. Học cách chọc que thăm trứng xem cá đẻ được hay chưa. Nếu được thì tách đàn để chuẩn bị chích thuốc kích thích với liều lượng hợp lý cho cá đẻ. Sau đó ba ngày nếu thăm thấy trứng chín thì bắt đầu đưa cá lên khay, dùng tay vuốt bụng cá cho trứng phun ra và tiến hành cho trứng thụ tinh. Sau đó đem trứng thụ tinh vào bể ấp trong thời gian 24 giờ, trứng nở thành cá bột. Thêm 24 giờ nữa đưa cá bột vào bọc oxy đem đến ao ương nuôi.

“Vui nhất là khi chính tay mình thao tác cho cá tự đẻ. Thành công khi đạt tỉ lệ 10% trứng cho trọng lượng một con cá mẹ; ba con cá mẹ cho 1 kg trứng, tương đương khoảng 1,2 triệu con cá bột”- ông Khiết nói.

Lúc đó trại cá giống của Hai Nấm, Bảy Biết, Bảy Xùm, Hai Diễm lớn nhất trong vùng sông Tiền, mỗi lần sản xuất cho ra lò 20-30 triệu con cá bột thu vào chừng nửa tỉ đồng, tương đương 100 lượng vàng. Cá nhân tạo đem nuôi sông đạt tỉ lệ cao trên 40%, do cá bố mẹ được tuyển chọn từ thiên nhiên hoang dã.

Chỉ trong một năm đã có khoảng 100 trại cá giống mọc lên, cung vượt cầu đã kéo giá cá giống từ 60 đồng xuống còn 1 đồng/con. Hiện có khoảng 10 cơ sở sản xuất cá giống ở đồng bằng đang áp dụng tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (Globle GAP) trong sản xuất con giống cá.

Cái nhạy của người nông dân miền sông nước chính là tác nhân chính thúc đẩy sự phát triển nghề cá ở đồng bằng.

_________________

Có 10 doanh nghiệp xuất hàng qua Mỹ nhưng họ cũng “đấu đá” nhau. Nông dân nuôi cá theo phong trào, giá giảm liên tục, ao bị treo, xe hơi, ca nô bị bán... Phía sau tấm da trơn thịnh vượng của con cá ba sa, cá tra... bài học nào là cần thiết?

Kỳ cuối: Phía sau tấm da trơn của cá

QUANG VINH - PHƯƠNG NGUYÊN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên