21/07/2008 11:23 GMT+7

Hai tác phẩm của vua Duy Tân

NGUYỄN DUY
NGUYỄN DUY

Trân trọng giới thiệu cùng đông đảo bạn đọc cả hai tác phẩm của Duy Tân - Vĩnh San qua bản dịch của Nguyên Ngọc: Tác phẩm Biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát đoạt Giải nhất cuộc thi văn học do Viện Hàn lâm Réunion (*) tổ chức năm 1924 và tác phẩm Tiếng nói vạn vật.

itqhOg4d.jpgPhóng to
Vua Duy Tân trong một cuộc mittinh ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp năm 1936 tại đảo Réunion - Ảnh tư liệu

Tìm dấu vua trong lòng dân

Trả lời phỏng vấn của chúng tôi, tháng 3-2008, nhà văn Nguyên Ngọc kể một kỉ niệm "không thể nào quên" về cựu hoàng Duy Tân: "Ngày còn học ở quê, mình được đọc một bài văn Pháp ngữ của Duy Tân, in trên tờ báo chuyên lưu hành trong các nhà trường, kiểu như tờ Học báo. Bài văn hay đến mức mình thuộc lòng, đến nay vẫn còn thuộc, Ce que dit la voix des choses - Tiếng nói của vạn vật...". Và ông đọc vanh vách một đoạn dài.

Tôi đề nghị ông dịch thành văn bản để dùng trong phim "Đi tìm dấu tích ba vua lưu đày". Ông hứa sẽ dịch.

Tháng 6, tới đảo Reunion, lãnh địa hải ngoại của Pháp ở nam Ấn Độ Dương, thuộc châu Phi, chúng tôi được nghe khá nhiều chuyện hay và lạ, thậm chí kỳ lạ, của hai cha con cựu hoàng Thành Thái - Duy Tân thời họ bị lưu đày tại đây. Vua cha Thành Thái là người bất hợp tác với Pháp, ít giao du, không sinh họat cộng đồng.

Còn Duy Tân thì khác, hội nhập với thế giới hiện đại, học giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, kỹ thuật điện tử, lắp ráp radio, chơi đua ngựa, chơi đàn vĩ cầm, làm thơ, viết văn đăng báo và tham gia nhiều họat động xã hội, giao thiệp rộng rãi... Riêng về thành tựu văn chương, Duy Tân đã từng đoạt giải nhất cuộc thi văn năm 1924 của Viện Hàn lâm Reunion với tác phẩm Variations sur une lyre brisée (Khúc biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát). Còn "bài thơ văn xuôi" Ce que la voix des choses thì được lưu hành trong nhà trường Pháp ngữ như một bài văn mẫu.

Chúng tôi đã chụp ảnh nguyên bản cả hai tác phẩm nói trên, gửi cho nhà văn Nguyên Ngọc, và đã nhận được bản dịch Việt ngữ của ông kèm theo lời phân trần: "Không thể nào dịch hay bằng nguyên tác được!".

..................................................

Biến tấu trên cây đàn lia vỡ nát

QXgcEea9.jpgPhóng to
Ôi, tiếng róc rách rỉ rả của vòi nước mới khiến tôi day dứt làm sao! Trong đêm khuya tiếng động ấy tràn vào đầu tôi, gõ vào tai tôi, nạo vào thần kinh tôi như một cành mộc tặc... Tôi buồn... Ý nghĩ của tôi quay cuồng.

Vầng sáng tròn khiêm nhường nơi ngọn đèn nhỏ của tôi đứng yên một chỗ như cố sức làm cho lòng tôi yên tĩnh. Hoài công thôi, tôi muốn đắm mình trong bí ẩn của Koenigsmark, văn xuôi của Pierre Benoit cũng khiến tôi chán chê chẳng khác gì những câu thơ trường phái Parnasse của Leconte de Lisle mà tôi đã cố uống lấy cho say.

Người đàn bà điên trong nhà không còn ở đấy nữa; bà ta, là người đã trang sức cho các câu và điểm tô cho các từ vẻ đẹp ta vẫn mong tìm, đã bỏ đi đâu mất rồi. Mới lúc nãy đây thôi, bà còn chăm chú theo rõi các trang sách của tôi... Vậy mà đột nhiên, bà bỏ ra đi.

Một con chó tru lên ở đâu đó. Một con chó lai ghẻ lở, gầy đét vì phải nhịn bữa suốt đời. Thường nhìn thấy nó, ngủ trên một đống rác hay ngờ vực rõi theo những cử chỉ của một người qua đường. Hai sườn chảy sệ của nó đã bao lần phải chịu những cú đá, đầu nó chi chít vết sẹo là bằng chứng hùng hồn của những lần bị ném đá.

Nó vừa tru lên, con chó ấy. Vì sao? Nó than thở nổi bất công của số phận với ai kia vậy, nó tin ở điều gì khi thét lên tiếng kêu càng khiến hai sườn nó thêm đau?

Vì sao mà nó tru lên thế?

Ôi, nào ta có biết được!

Bao giờ cũng vậy trong ta có một kẻ khác âu lo và tìm kiếm.

Có thể đấy chính là cuộc hành trình đến chốn hoàn thiện, bởi chúng ta đã bị kết án là có thể trở nên hoàn thiện.

Tiếng chó tru đã tắt.

Dòng suy nghĩ của tôi đã trở lại. Quẩn quanh trong căn phòng này. Tôi vẫn buồn.

Lạ quá chừng!

Bí ẩn của một con ngươi mắt mở ra quá rộng đang nhìn ta, giấu sau hai hàng mi, một nụ cười ta không biết muốn nói gì đây hay tiếng kêu của một con vật, tràn đầy hy vọng hay đau đớn hay cả tiếc nuối nữa, chỉ chừng đó thôi đã đủ để khiến ta buồn, một nỗi buồn không sao tìm ra được nguyên cớ.

Tuy nhiên, ai biết được đây?

Trong tiềm thức tăm tối nơi đôi lúc cái tôi toàn vẹn của ta ẩn náu, có chăng một nỗi niềm nào đó mà ký ức nhuốm trí óc ta một màu u tối?

Ta nhớ lại ...

Vâng, bây giờ ta đã hiểu vì sao trái tim ta đập nhịp ủ ê thế này trong lồng ngực ta.

Nó nhớ lại nổi đau do những nan lồng đã chặn đứng cánh bay tung của nó ra bầu trời đầy tràn ánh sáng.

Vâng, vậy đó ...

Ta ngồi dưới chân một thân cây đầy rêu, cành lá còn giữ những giọt sương, rung rinh trong gió sớm. Toàn bộ cánh đồng quê trẻ lại sau một giấc ngủ đêm, trải ra giữa các đồi núi như một tấm áo choàng ngày hội. Trong giây phút ấy, ta tận hưởng một niềm vui thú được tham dự vào cuộc bừng thức của cỏ cây và muông thú.

Tựa vào tay mẹ, cô gái ấy đi qua ...

Khi ánh tóc đen nhánh của cô khuất sau khúc quanh của con đường thôn dã, ta vẫn còn dõi theo trong khoảng trống không khuôn mặt thoáng hiện của cô. Lặng người, ta hổn hển đuổi theo một ảo ảnh. Tiếng hót nhẹ nhàng của một con chim đâu đó ở bên trên khiến ta ngước mắt nhìn lên.

Một người đàn ông đi qua và phá tan mất niềm hứng khởi...

Ta rời bỏ niềm cô đơn của cây cối để trở về trong niềm cô đơn của con người.

Ngày tháng theo nhau rơi chìm vào hố sâu của quá khứ ...

Một buổi sớm, trước khi mặt trời còn chưa rạng, ta hít thở không khí trong mát và mơ màng chẳng biết đến điều chi, đến một điều gì đó xa xôi, và tuy vậy do sự hiện diện của nó lại làm dịu bớt bóng tối đượm xanh của buổi chớm bình minh. Trên vầng trời cao kia, những ngôi sao run rẩy, cảm thấy đã gần đến lúc chúng không còn long lanh được nữa.

Một con gà trống cất tiếng gáy vang lừng, một khúc hoan ca mừng tình yêu, sự sống và ánh sáng.

Những con gà trống khác, được tiếng kèn sớm ấy đánh thức, đáp lời.

Mọi vật đều yên tĩnh; quấn một vấn khăn mây, các ngọn núi trông như những hiệp sĩ trang trọng trong một hội nghị bàn tròn kỳ diệu vào đêm thức thụ phong kỵ sĩ, hay như những thủ lĩnh thổ dân Nam Mỹ đang họp hội đồng tướng lĩnh chiến tranh, họ ngồi trong làn khói toả ra từ chiếc ống điếu dài. Chung quanh các thủ lĩnh, những ngọn núi nhọn hoắt là những vệ sĩ đứng canh.

Mọi người còn đang yên giấc. Trong giấc ngủ, nhân loại quay về cái thời kỳ khi những dục vọng ngốc nghếch còn chưa huỷ hoại sự hài hoà của con người và tạo vật.

An tịnh mênh mông ...

Mây từ từ sáng lên và tản ra; không khí trong suốt hơn và bầu trời bớt tối đi.

Đột ngột, ở phía bên trái, một đỉnh núi nhuốm màu hồng vàng rực, rồi lần lượt tất cả các đỉnh núi nối tiếp cùng sáng lên một màu long lanh.

Dẫu chẳng muốn, tâm trí con người bỗng mở rộng ra trước cảnh bình minh ấy, một bản giao hưởng sắc màu trong đó tất cả các pha đều gợi lên cùng một cảm giác hùng vĩ và nguôi ngoai.

Khối núi oai nghiêm nơi tầm nhìn của tôi dừng lại lần lượt trở màu tím, rồi hồng, rồi đỏ, vàng óng và cuối cùng chói lọi một màu trắng trong veo chẳng gì sánh được.

Vạn vật đều thức dậy; khu rừng, mới lúc nãy, chỉ khẽ rì rào, bây giờ dang rộng các cành cây cho ánh sáng vuốt ve.

Ta rõi nhìn...

Được tham dự sự bừng nở của ngày, ta cảm thấy vượt qua được mọi nỗi thống khổ của thế gian.

Đôi mắt ta, vui mừng, ngắm nhìn các sắc màu rực rỡ của những đoá hoa trên nền xanh tràn trề của cảnh vật. Ngay sát hai bên một lối đi, hai hàng rào hoa đào gai kéo dài một dải trắng.

Ta rõi nhìn ...

Một run rẩy nhẹ ... như là một mối hiểm nguy bất ngờ hay một mong ước quá đỗi bồn chồn.

Giữa lối đi, kia là nàng đang thức dậy ...

Song, có ai biết, suốt những ngày qua từ khi sự xuất hiện của nàng giữa những hàng cây khiến ta chú ý, ý nghĩ của ta chẳng mấy vấn vương niềm mong ước được gặp lại nàng...

Đối với một số người, lối mòn của bệnh hoài nghi và thói quen mỉa mai tất cả, khiến cho tác động của xúc cảm trở nên khó khăn. Trong thế tự vệ đạo đức, hoài nghi là tự khoác cho mình một chiếc áo giáp, mỉa mai là giữ lấy tay khiên. Nhưng không thể cứ lúc nào cũng trang bị đầy vũ khí; sẽ đến một lúc nào đó ta cảm thấy mình đã an toàn, ta cởi bỏ áo giáp, mà thật kiên cường ta từng đến ngạt thở trong ấy mà vẫn cười, và tới lúc đó ta sẽ rất dễ bị tổn thương dù chỉ bởi một cái chích nhẹ hay một vuốt ve thoảng qua.

Ngoài ra còn có những phút mà vẻ tráng lệ mênh mông của bầu trời buộc ta quên bẵng đi mặt đất, và lại cũng còn có những giây phút khi tiếng rền rĩ của một chiếc phong cầm lải nhải một bản tình ca nghe được từ ngày xưa bỗng khiến ta nới lỏng cuộc canh giữ quyết liệt từng bố trí chặt chẽ quanh tâm hồn mình. Buổi sáng hôm đó ta bị tước hết vũ khí. Những cánh hoa đang bừng nở rạo rực trước mắt ta kia làm trào lên trên đôi môi ta niềm khát khao được nếm chất mật tuyệt diệu, ẩn sâu trong những đoá hoa, mới mẻ xiết bao sau một đêm say ngủ.

Nhìn thấy nàng là hoàn tất tác động của buổi bình minh.

Ta tìm giữa màu xanh đón mừng ngày mới ấy điều bí ẩn của sự tương cận khiến con người mơ tưởng trước những vật thể câm lặng kia và bỗng nhiên cộng vào bí ẩn của vạn vật lại có thêm bí ẩn của con người.

Tại sao trước khuôn mặt nhìn nghiêng nào đã rõ kia ta bỗng cảm thấy khát khao vô cùng được đứng bên khung cửa sổ nọ, ở đấy mãi, mãi suốt bao nhiêu thế kỷ và ta mong ước biết bao mọi sự sẽ vĩnh viễn tuyệt đối bất động, để cho ở nơi ấy cái bóng nhỏ nhoi kia sẽ chẳng bao giờ biến mất?

Cũng giống như những người lên cơn sốt nghe đau nhức trong mình mà đoán được cơn kịch phát đang đến gần, ta cảm thấy điều gì sẽ đến với ta từ buổi sáng ở nước Tây Ban Nha rộng lớn này nơi ta xây những lâu đài.

Dẫu giữa các hàng thông

Có một nòng súng tịt

Thì nơi kia các con thỏ

Vẫn rên rỉ: Thôi hết rồi!

Rostand

Còn kháng cự làm gì nữa, khi ta đã trúng đạn mất rồi?

Tốt hơn cả là để cho cơn đau cứ thế mà tiếp diễn và bởi vì ta biết nó chẳng làm chết người đâu, thôi thì cứ mặc vậy.

Đầu óc ta cứ vậy mà lý lẽ, sẵn sàng khỏi ngay mọi căn bệnh, nhưng là theo lối của nhà giải phẫu bẻ đi một cái xương, lấy cớ là để nắn cho nó thẳng lại!

***************************************************

(*) Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Réunion được thành lập năm 1913. Năm 1925, do Paul Harman làm chủ tịch, ông đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Toàn lãnh thổ Réunion. Viện Hàn lâm này gồm 25 thành viên trong số đó có Joseph Bédier và Đô đốc Lacaze là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp.

......................................................

Tiếng nói của vạn vật

NQFyobFg.jpgPhóng to
Tôi yêu tiếng rì rào của gió khi gió hát hay than khóc trong các cành cây. Tôi yêu những lời tâm sự du dương của gió với cây rừng, với sóng biển, với sao trời.

Nhưng còn hơn thế nhiều, ru đưa hồn tôi, khiến tôi rạo rực, yêu thích, là tiếng nói lớn của đại dương, lời than thở lan khắp vũ trụ cất lên trong vắng lặng của đêm khuya tựa một bản tụng ca bất tận.

Giữa mùa hè, khi tôi lưu lại bên bãi biển, những đêm thao thức, tôi rất thích được nghe các biến tấu của tiếng nói ấy. Trong những đêm thanh vắng, tưởng như đấy là tiếng thở của một vị thần Léviathan đang thiêm thiếp, vào những lúc khác, tiếng nói ấy bỗng vang lừng, gào thét, đầy đe doạ trong cơn gầm rú của bão tố.

Tiếng ru đưa hay tiếng thở than của vũ trụ phải chăng chính là âm vang dội lại của những dục vọng trần thế, tiếng ca hào hùng và tiếng thét của một thế giới tiềm ẩn? Chúng biểu lộ, lúc thì niềm vui hay nổi đau, lúc thì nỗi lo sợ hay sự hung bạo, khi là niềm dịu dàng hay cơn giận dữ.

Đấy là một bản hoà tấu hân hoan hay đau đớn trào dâng thành những rung động, những đợt sóng truyền lan cho đến cõi vô tận để rồi hoà tan trong bản giao hưởng vĩ đại những người trai trẻ trên khắp thế gian và khơi nguồn cảm hứng cho bậc thiên tài. Chính vì thế mà chúng gây cho ta những cảm giác không sao có thể cắt nghĩa và sâu xa, bởi chúng tái hiện và thâu tóm toàn bộ cuộc sống của con người trong những hoá thân vĩnh cửu của nó.

Toàn bộ tự nhiên mênh mông là một nguồn phát lộ cho tâm hồn những ai biết nhìn thấy, biết cảm nhận, biết thấu hiểu. Những hơi thở của đất và của nước, những phát xạ của thế giới các thiên hà, tất cả đều nói về niềm bí ẩn của cuộc sống và số phận vĩnh hằng.

Nhưng chính trong niềm an tịnh của của những lúc cô đơn, những tiếng nói bí ẩn kia mới thổ lộ hết với những ai biết chăm chú và trầm tư. Chính vì thế mà các nhà thơ, các nhà văn, các nhà tư tưởng thường thích lui tới các ngôi đền của tự nhiên, những chốn ẩn dật giấu kín, xa các đô thành, nơi nguồn cảm hứng bùng lên và sự thần giao trở nên sâu kín hơn cả.

Gió nói gì kia khi khua động cành lá? Ngọn núi cao có vầng trán kiêu hãnh kia, chiếc hồ kia, khu rừng kia, giòng thác kia đang nói với ta những gì? Tất cả đều cất cao lời: "Hãy ngợi ca Thượng đế, hỡi Linh hồn con người, và hãy gắng sức mà vươn cho đến được nơi Người!". Vươn cho đến được với Người, đấy là mục đích của sự sống và của mọi cuộc đời, hãy học lấy tình yêu, đấy là bí mật của hạnh phúc, hãy học biết đau khổ, đấy là bí quyết của sự thanh lọc, của con đường đến với ánh sáng. Nỗi đau là chị em của niềm vui, cả hai hoà tạo nên sự hài hoà, bổ sung và làm đẹp cho nhau.

Hãy học lấy nghệ thuật tự nhận thức về mình và làm chủ những năng lực tiềm tàng và ẩn dấu. Bằng con đường đó, ngươi sẽ khám phá ra điều bí ẩn của Vũ trụ và các động lực của nó. Vẻ tráng lệ của công trình thần thánh sẽ bộc lộ trong chính ta và trong mọi vật".

DUY TÂN - VĨNH SAN, nhà văn Theo Lao Động cuối tuần

NGUYỄN DUY
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên