09/07/2004 23:06 GMT+7

Đề thi và bài gợi ý làm bài môn Lịch Sử (2004)

ĐOÀN VĂN ĐẠO (PTTH Chuyên Lê Hồng Phong)
ĐOÀN VĂN ĐẠO (PTTH Chuyên Lê Hồng Phong)

TTO - Chúng tôi tiếp tục cung cấp cho bạn đọc và các thí sinh đề thi và bài giải môn Lịch sử khối C kỳ thi tuyển sinh đại học năm 2004.

Đề thi:

Câu I: (2 điểm)

Anh (chị) hãy phân tích những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám (1945).

Câu II: (5 điểm)

Dựa vào ba sự kiện quan trọng sau đây: Chiến thắng Việt Bắc (1947), chiến thắng Biên giới (1950) và chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), anh (chị) hãy làm sáng tỏ các bước phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Câu III: (3 điểm)

Anh (chị) hãy trình bày những thành tựu (từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991) của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại.

GỢI Ý LÀM BÀI

Câu I:

Cách mạng tháng Tám (1945) đã để lại những bài học kinh nghiệm:

- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu, nhằm tập trung lực lượng để thực hiện cho được yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho tổ quốc.

- Đánh giá đúng và biết tập hợp, tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó công nông là đội quân chủ lực. Trên cơ sở khối công nông liên minh, biết khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh bại chúng.

- Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mạng và khởi nghĩa vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần ở nông thôn với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa ở đô thị để khi có thời cơ thì phát động tòan dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Câu II:

Chiến thắng Việt Bắc (1947)

Chiến lược chiến tranh của Pháp là "đánh nhanh thắng nhanh", nhưng sau khi quân ta rút khỏi các đô thị, Pháp tuy có chiếm thêm được một số thành phố, thị trấn và kiểm soát được một số đường giao thông quan trọng, chúng vẫn không thực hiện được âm mưu đánh nhanh thắng nhanh và cũng không sao giải quyết được mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng (càng mở rộng địa bàn chiếm đóng thì lực lượng còn bị dàn mỏng, dễ bị ta tiêu diệt; nhưng nếu tập trung quân để tránh bị ta tiêu diệt thì không thể mở rộng được địa bàn chiếm đóng). Trong khi đó, nước Pháp đang gặp nhiều khó khăn về mọi mặt...

Để giải quyết tình trạng trên, Pháp đã liều lĩnh mở cuộc tấn công quy mô lớn lên căn cứ địa Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, rồi dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc (chính quyền Bảo Đại) và nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Nhưng cuộc tấn công đó đã bị ta đánh bại.

* Với chiến thắng Việt Bắc, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, 16 máy bay bị hạ, 11 tàu chiến, cano bị đánh chìm; tinh thần binh lính Pháp hoang mang, dư luận Pháp phẫn nộ; căn cứ Việt Bắc được giữ vững, các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước an toàn, bộ đội ta trưởng thành, ảnh hưởng của chính phủ kháng chiến lên cao. Đồng thời, ta đã đánh bại hoàn toàn chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của địch, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Đồng thời lực lượng so sánh giữa ta và địch bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta.

* Chiến thắng Biên giới (1950):

Sau chiến thắng Việt Bắc (thu đông 1947), tình hình thế giới đã diễn ra theo chiều hướng có lợi cho ta: Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1.10.1949); từ tháng 1.1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia đã phát triển và giành được nhiều thắng lợi mới; phong trào nhân dân Pháp và nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương ngày càng dâng cao.

Trước tình thế ngày càng khó khăn, được sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp thông qua kế hoạch Revers: "khóa chặt biên giới Việt - Trung" bằng cách lập hệ thống phòng ngự trên đường số 4; đồng thời thiết lập "hành lang Đông Tây" (Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La) để cắt liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu III, IV; với hai hệ thống phòng ngự ấy, Pháp chuẩn bị tấn công lên Việt Bắc lần thứ hai để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

Biết rõ âm mưu của địch, đồng thời để tranh thủ những điều kiện thuận lợi, khắc phục tình trạng bị bao vây từ bên trong, đẩy mạnh cuộc kháng chiến phát triển sang một giai đọan mới, ta chủ động mở chiến dịch biên giới nhằm 3 mục đích: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông biên giới Việt - Trung để mở rộng đường liên lạc giữa ta với các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc.

Sau hơn một tháng tiến công (từ 16.9.1950 - 17.10.1950), chiến dịch Biên giới thắng lợi. Ta tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; giải phóng dải biên giới Việt - Trung dài 750km (từ Cao Bằng đến Đình Lập), cùng với 35 vạn dân, mở rộng đường liên lạc quốc tế; chọc thủng "hành lang Đông - Tây", nối liền Việt Bắc với các địa phương khác.

Với chiến thắng Biên giới, ta đã giành được quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính (Bắc bộ), quân đội ta thêm trưởng thành để từ đó ta liên tiếp mở thêm những chiến dịch tiến công, đánh tiêu diệt địch với quy mô ngày càng lớn. Ngược lại, đây là thất bại lớn của Pháp về cả quân sự lẫn chính trị, địch bị đẩy vào thế phòng ngự bị động, càng thêm lúng túng về nhiều mặt.

* Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954):

Với chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, ta đã chủ động tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng đất đai; đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ, để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng. Cuộc tiến công của ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng ở nhiều nơi (đồng bằng Bắc bộ, Điện Biên Phủ, Sênô, Pleiku - Nam Tây Nguyên, Luông Phabang) khiến cho bước đầu kế hoạch Navarre bị phá sản. Thắng lợi này tạo điều kiện, thời cơ thuận lợi để ta tiến lên giành thắng lợi quyết định ở Điện Biên Phủ.

Trong tình thế bước đầu kế hoạch Navarre bị phá sản, Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương (biến thành trung tâm điểm của kế hoạch Navarre) nhằm thu hút lực lượng của ta vào đây để tiêu diệt. Ta cũng chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với Pháp; toàn quân toàn dân ta gấp rút chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ theo tinh thần: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".

Sau ba đợt tấn công (từ 13-3 - 7-5-1954), chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ: 16.200 tên; hạ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí và cơ sở vật chất kỹ thuật của địch; đập tan kế hoạch Navarre và mọi mưu đồ chiến lược của Pháp Mỹ.

Như vậy, với ba chiến thắng quan trọng: Chiến thắng Việt Bắc (1947), Chiến thắng Biên giới (1950) và Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954); cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã từng bước phát triển vững chắc, bẻ gãy âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của địch, tiến lên giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc bộ, cuối cùng đánh bại địch hoàn toàn trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Geneve, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Câu III:

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại (từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991) là sự kết hợp chặt chẽ cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật thành một thể thống nhất, tạo ra một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật cùng phát triển với tốc độ nhanh chóng, quy mô rộng lớn và đạt được những thành tựu kì diệu chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Do yêu cầu của cuộc sống con người (yêu cầu của kỹ thuật và của sản xuất); sự bùng nổ về dân số, tài nguyên vơi cạn dần, tình trạng ô nhiễm môi trường... đã đặt ra những yêu cầu mới đối với khoa học - kỹ thuật (công cụ sản xuất mới có kỹ thuật cao, những nguồn năng lượng mới, những vật liệu mới...), cũng do yêu cầu phục vụ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (phải sáng chế những vũ khí hiện đại có tính năng tàn phá và sát thương lớn, và những phương tiện thông tin, liên lạc ưu việt...) buộc cả hai bên tham chiến phải đi sâu vào nghiên cứu phát triển khoa học - kỹ thuật, cuối cùng, do những thành tựu về khoa học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại.

Trước hết trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, đánh dấu những bước nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử ở các ngành toán học, vật lý học, hóa học, sinh học:

* Toán học : Đã có nhiều phát minh lớn, phát triển thành nhiều ngành riêng biệt, đang ngày càng thâm nhập sâu vào các ngành khoa học khác và tạo thành quá trình "toán học hóa" khoa học, trong các lĩnh vực vật lý học, hóa học, sinh học; kể cả các ngành ngữ học, sử học, kinh tế học...

* Vật lý: Với những phát minh lớn về lý thuyết hạt nhân, sóng điện từ, trường điện từ, hiện tượng phóng xạ..., đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất ra những công cụ mới, vật liệu mới, nguồn năng lượng nguyên tử; những phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hết sức hiện đại.

* Hóa học: Có những thành tựu lớn, đang tạo ra một sức mạnh tổng hợp tác động vào kỹ thuật và sản xuất, mở ra những phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất ra những "vật liệu hóa học" có nhiều mặt ưu việt hơn so với vật liệu tự nhiên và đặc biệt nó sẽ thay thế vật liệu tự nhiên đang ngày càng vơi cạn dần.

* Sinh học: Đã dẫn đến cuộc "cách mạng xanh" trong nông nghiệp và sự ra đời của "phòng sinh học" và công nghệ sinh học, bao gồm công nghệ sinh hóa, y và dược sinh hóa, công nghệ sinh vật chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường.

Thứ hai, các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những công cụ sản xuất mới: máy tính, máy tự động và hệ thống máy tự động, "người máy" (rôbốt), hệ điều khiển tự động.

Thứ ba, tìm ra và sử dụng những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận: năng lượng nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió...

Thứ tư, sáng chế ra những vật liệu mới thay thế cho nguyên vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần trong thiên nhiên, quan trọng nhất là chế tạo ra vật liệu tổ hợp (composit) có đặc tính mong muốn, ưu việt hơn vật liệu tự nhiên.

Thứ năm, là cuộc "cách mạng xanh" trong nông nghiệp. Do tác động tổng hợp của các ngành khoa học, đặc biệt là sinh vật học và hóa học, nông nghiệp đang tiến những bước nhảy vọt nhờ cơ khí hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa với những biện pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh... Nhờ cuộc "cách mạng xanh", con người đã tìm ra phương hướng để có thể khắc phục được nạn đói ăn, thiếu lương thực - thực phẩm kéo dài từ bao thế kỷ.

Thứ sáu, con người đã đạt được những tiến bộ thần kỳ trong các lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc: máy bay siâu âm khổng lồ, tàu hỏa siêu tốc; hệ thống phát sóng truyền hình qua vệ tinh, máy Fax, điện thọai di động liên lạc toàn cầu...

Ngoài ra, thành tựu chinh phục vũ trụ như tàu vũ trụ, tàu con thoi, con người đặt chân lên mặt trăng...

Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai, có một vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.

Thứ nhất, đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất, nhờ đó, con người tạo ra những lực lượng sản xuất và khối lượng hàng hóa đồ sộ, đã nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của con người.

Thứ hai, đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới: "văn minh hậu công nghiệp" ("văn minh trí tuệ"), con người có thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động, tiến lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.

Thứ ba, làm cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật ngày càng quốc tế hóa cao, thế giới đã trở thành một cộng đồng.

Thứ tư, bên cạnh những thành tựu kỳ diệu, ưu việt, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay đã gây ra những hiệu quả tiêu cực chưa thể khắc phục được: vũ khí hủy diệt, ô nhiễm môi sinh, bệnh tật, tai nạn... gắn liền với kỹ thuật mới.

ĐOÀN VĂN ĐẠO (PTTH Chuyên Lê Hồng Phong)
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên