01/12/2011 07:59 GMT+7

Ồ ạt xuất khẩu than - Kỳ 1: Chuyển "núi" ra nước ngoài

CẦM VĂN KÌNH
CẦM VĂN KÌNH

TT - Chín tháng đầu năm 2011, Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản VN đã xuất khẩu tới 12,5 triệu tấn than. Trong khi đó, các nhà máy nhiệt điện VN lại đang và sẽ phải nhập than với giá cao.

Read this on Tuoitrenews.vn

rnKUAr8A.jpgPhóng to
Khai thác than xuất khẩu tại Công ty than Mạo Khê, Quảng Ninh - Ảnh: NGUYỄN ĐÁN
zqVdIw5W.jpgPhóng to

Khai thác than xuất khẩu tại Quảng Ninh - Ảnh: NGUYỄN ĐÁN

Mặc dù có chủ trương hạn chế xuất khẩu tài nguyên dạng thô, đặc biệt VN đã phải nhập khẩu than, nhưng chín tháng đầu năm 2011 Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản VN (TKV) vẫn xuất tới 12,5 triệu tấn than. VN tiếp tục nằm trong top 5 nước xuất khẩu than đá lớn nhất thế giới.

Một quan chức Bộ Tài chính mới đây đã phải thốt lên: tốc độ xuất khẩu như vậy là quá ồ ạt và bộ này đã phải tăng thuế xuất khẩu than vào tháng 9-2011, nhưng cả năm TKV vẫn có thể xuất khẩu đạt 16,5 triệu tấn...

Doanh thu cao nhờ bán than

Tại các mỏ than của TKV ở Quảng Ninh những ngày cuối tháng 11-2011, không khí khai thác vẫn sôi động để chuẩn bị hoàn thành mục tiêu năm 2011 khai thác 47,06 triệu tấn than nguyên khai (chưa chế biến), bằng 100,8% năm 2010.

Hầu hết công ty thành viên của TKV công nhân làm việc liên tục ba ca nhằm đảm bảo sản lượng khai thác. Với kế hoạch đặt ra từ đầu năm doanh thu lên tới gần 73.000 tỉ đồng (gần 3,5 tỉ USD), TKV vừa được xếp hạng là một trong những tập đoàn có doanh thu cao nhất VN, chỉ sau một số tập đoàn, tổng công ty như Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Xăng dầu...

Theo Bộ Công thương, tính chung giai đoạn 2006-2010 TKV sản xuất và tiêu thụ bình quân mỗi năm 40-41 triệu tấn than sạch. Sản lượng khai thác của TKV liên tục tăng mạnh. Với số lượng than nguyên khai đào được ngày càng tăng, doanh thu từ than và giá trị xuất khẩu của TKV đạt được cũng rất lớn. Nếu như năm 2006 TKV mới thu được khoảng 15.300 tỉ đồng từ than thì năm 2009, tức sau bốn năm, doanh thu đã tăng hơn gấp đôi, lên tới trên 36.500 tỉ đồng.

Với tổng lượng than bán được năm 2010 là 42 triệu tấn, TKV cho biết đã xuất khẩu 18,7 triệu tấn. Tính chung năm 2010, tổng giá trị xuất khẩu than khoáng sản của tập đoàn này lên đến con số ấn tượng: 1,4 tỉ USD!

Theo một quan chức của TKV, rất khó có thể so sánh xuất khẩu than với các loại khoáng sản khác. Bởi khai thác than tạo ô nhiễm và khi khai thác xong trên bề mặt và dưới lòng đất các lò than rất khó khôi phục, trả lại nguyên trạng mà có thể phải mất cả chục năm sau cây cối mới xanh tươi trở lại.

Số lượng than khai thác mỗi năm lên tới trên 40 triệu tấn, theo quan chức này là đã đem ra khỏi lòng đất một lượng vật chất khổng lồ. Với lượng than xuất khẩu của TKV năm 2010 là khoảng 18,7 triệu tấn, một chuyên gia trong lĩnh vực khoáng sản ví von số lượng này tương đương mấy quả núi được chuyển ra nước ngoài...

Tăng thuế cũng không sao

Một lãnh đạo Bộ Tài chính cho rằng tốc độ xuất khẩu than như vậy là quá ồ ạt, trong khi chủ trương chung của Nhà nước là hạn chế xuất khẩu tài nguyên dạng thô, nên Bộ Tài chính đã phải tăng thuế xuất khẩu than từ ngày 11-9-2011 thêm 5%, lên mức 20%.

Ông Nguyễn Thành Sơn, giám đốc Ban quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng, cho biết với những thông tin ông có được thì than TKV xuất khẩu chỉ một lượng nhỏ trong nước không dùng đến, còn lại ước tính phải đến 10 triệu tấn chính là loại than mà VN đang và sẽ phải nhập trong tương lai. Ông Sơn cho rằng TKV nên công khai tỉ lệ từng loại than xuất khẩu xem thực chất đang xuất khẩu loại than gì.

Đặc biệt, ông Sơn phân tích chất lượng than trong lòng đất cơ bản không thay đổi, vấn đề TKV khai thác được nhiều than đẹp để xuất khẩu còn do sử dụng công nghệ mới. Cũng có thể nói TKV đã chạy theo số lượng khi khai thác cả than lộ vỉa để tăng số lượng khai thác, tăng xuất khẩu.

Chuyên gia địa chất Lê Quang Cảnh, nguyên cán bộ Liên đoàn 3 Tổng cục Địa chất, cũng cho rằng hiện đối tác lớn mua than của TKV là Trung Quốc và họ mua chủ yếu để phục vụ nhu cầu không phải quá cao cấp. Theo ông Cảnh, Trung Quốc đã phải khai thác xuống rất sâu, giá thành cao nên họ cần mua than của VN. Tuy nhiên, chính vì thế VN nên tính việc xuất khẩu than với lợi ích lâu dài chứ không phải trước mắt.

Kỳ tới: Sẽ phải nhập giá cao

6OvzNxLW.jpgPhóng to
Đồ họa: V.Cường

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Trần Xuân Hòa, chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản VN (TKV), thừa nhận nhập khẩu than không dễ, nhưng lại công nhận năm 2011 VN vẫn xuất khẩu than đá lớn bậc nhất thế giới. Ông Hòa nói:

- Số lượng than VN phải nhập khẩu sẽ bắt đầu tăng kể từ năm 2015. Theo quy hoạch, với số lượng nhà máy nhiệt điện, ximăng, thép hoạt động vào năm 2015 thì chúng ta sẽ phải nhập khẩu khoảng 5 triệu tấn, sau đó tăng dần. Chúng tôi đang chỉ đạo và tiếp cận nhiều đối tác để bắt đầu xúc tiến chuẩn bị cho việc nhập khẩu than, cũng như để cán bộ công nhân viên quen dần.

* Năm 2009, TKV được đánh giá là nhà xuất khẩu than đá lớn nhất thế giới. Năm 2011, liệu TKV còn giữ vị trí này?

- VN là nước có trữ lượng than antraxit (than đá) lớn và chúng ta chủ yếu chỉ có than này. Năm 2011, chúng tôi có thể không đứng vị trí thứ nhất nhưng do các nước xuất khẩu loại than này không nhiều nên nếu không đứng vị trí thứ hai, thứ ba thì VN có thể vẫn nằm trong top 5 nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.

Tuy nhiên, theo quy hoạch của Bộ Công thương, trong năm năm tới chúng tôi sẽ giảm xuất khẩu. Năm 2011 sẽ chỉ xuất 16,5 triệu tấn. Năm 2012 xuống khoảng 13,5 triệu tấn. Năm 2013 xuống khoảng 8 triệu tấn. Mức xuất khẩu sẽ ổn định ở 4-5 triệu tấn than vào khoảng năm 2015 và sau đó. Đó là theo quy hoạch, còn theo tôi một khi ta thị trường hóa được giá than thì ta có thể duy trì xuất khẩu vì than của chúng ta có giá trị rất cao, nếu đem đi đốt điện rất lãng phí. Nếu sau này giá than theo giá quốc tế thì phía Nam đi nhập khẩu than là có lợi, còn phía Bắc sẽ sản xuất đáp ứng nhu cầu miền Bắc và xuất khẩu sẽ hiệu quả hơn.

* Sắp phải nhập khẩu nhưng TKV vẫn xuất khẩu, theo ông, có vì lợi ích toàn cục hay chỉ vì lợi ích ngành than?

- Nhập khẩu là chuyện bình thường. Bây giờ cứ dùng than chúng tôi đang xuất khẩu khoảng 300 USD/tấn để đốt điện thì ta có chịu được giá đó không. Các nước như Trung Quốc sản xuất khoảng 3,5 tỉ tấn nhưng họ vẫn nhập hàng trăm triệu tấn than. Nhật Bản, Hàn Quốc cũng nhập hàng trăm triệu tấn. Tất nhiên việc nhập sẽ không thể chủ động bằng sản xuất tại chỗ nhưng không thể nói không làm được.

* Thưa ông, tại sao ta không đợi đầu tư những nhà máy có thể dùng than chất lượng cao mà cứ xuất khẩu ngay?

- Đất nước đang giải quyết bài toán khoa học công nghệ thế nào để sử dụng hiệu quả tài nguyên. Như Nhật Bản họ mua than về sản xuất điện cực nhưng công nghệ đó đâu có ở VN. Trình độ khoa học công nghệ VN đang ở mức độ nào? Ngay từ bài học phổ thông đã thấy từ than có thể ra rất nhiều sản phẩm nhưng công nghệ ta còn yếu kém, dù tôi vẫn tin sắp tới ta sẽ phát triển công nghệ để sử dụng hiệu quả tài nguyên.

* Nhiều chuyên gia đề xuất Chính phủ dừng hẳn xuất khẩu than?

- Hiện chúng tôi đang bán than cho điện chỉ bằng khoảng 55% giá thành, chưa kể lợi nhuận định mức, chỉ bằng 25% giá than xuất khẩu. Tiền bù đắp lỗ để bán than giá thấp cho điện phải lấy từ than xuất khẩu. Bù đắp đâu nhỏ, năm 2011 khoảng 5.000 tỉ đồng, nếu không có gì thay đổi thì sang năm còn lớn hơn. Vậy tiền này sẽ lấy từ ngân sách hay là Nhà nước nên cho ngành than xuất khẩu để bù lỗ, chưa phải tăng giá? Bài toán này Chính phủ sẽ giải quyết và chúng tôi sẽ chấp hành tuyệt đối.

Tháng 6-2011, TKV đã cho công ty con nhập khẩu trên 9.500 tấn than đầu tiên từ Indonesia để chuẩn bị cho việc VN sẽ phải nhập khẩu nhiều than từ năm 2015.

Ông Lê Minh Chuẩn, tổng giám đốc TKV, trong cuộc họp giao ban tại Bộ Công thương mới đây cho biết loại than nhập khẩu là than thô, khi nhập về phải sơ chế, chế biến. Giá nhập loại than này khoảng 73,6 USD/tấn, cộng cước vận chuyển 27 USD/tấn, tổng giá chỉ 106 USD/tấn - tương đương than cám mà VN đang xuất khẩu 108,6 USD/tấn. Nếu vận chuyển từ Hòn Gai vào Cát Lái chi phí mất 14 USD/tấn nên theo ông Chuẩn, nhập từ nước ngoài rẻ hơn khoảng 14 USD/tấn.

Từ lập luận trên, ông Chuẩn cho rằng vừa xuất và nhập khẩu than là rất bình thường. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thành Sơn phân tích: lãnh đạo TKV tính giá than nhập khẩu rẻ hơn than trong nước là chưa tính đến các chi phí khác. Như nhập than từ Indonesia về giá cuối cùng là 108,6 USD/tấn, nhưng TKV đã quên không tính chi phí chế biến, sàng tuyển mất khoảng 10 USD/tấn.

Chi phí bốc than đã sàng tuyển đem đến các nhà máy khoảng 5 USD/tấn, chưa kể chi phí kho bãi, nhất là khi sàng lọc than quá kém phải loại ra... cũng khiến tăng giá thành. Vì vậy, ông Sơn cho rằng than nhập khẩu sau khi chế biến, chuyển đi có thể giá còn cao hơn cả giá than trong nước, các nhà máy điện sẽ khó ai dám mua than đó.

CẦM VĂN KÌNH
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên