05/12/2009 15:56 GMT+7

Miền Trung với trục kinh tế biển hùng mạnh

Theo TS. TRƯƠNG ĐÌNH HIỂNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Theo TS. TRƯƠNG ĐÌNH HIỂNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Lĩnh vực kinh tế biển hết sức rộng lớn, bao trùm nhiều mặt như giao lưu thương mại, đầu tư kinh tế kỹ thuật, sự hình thành các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, các chuỗi đô thị, hệ thống cảng biển, hệ thống dịch vụ, du lịch, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình an ninh quốc phòng, hệ thống công trình biển và thềm lục địa, khai thác khoáng sản, dầu khí, công nghiệp khai thác và chế biến hải sản.

Biển tác động đến khí hậu và ảnh hưởng lớn đến mùa màng nông, lâm nghiệp và còn tới nhiều lĩnh vực khác. Sự hình thành các lĩnh vực kinh tế biển như trên sẽ dẫn đến sự hình thành tiếp theo của khoa học kỹ thuật, dịch vụ, tài chính ngân hàng… và dẫn đến sự biến đổi to lớn về mặt đời sống xã hội.

Vùng kinh tế trọng điểm và kinh tế biển

E8PdAgEb.jpgPhóng to
Đón tàu du lịch tại cảng Chân Mây (Thừa Thiên - Huế) - Ảnh: TTXVN

Trên cơ sở phân tích xu thế phát triển về kinh tế biển và sự thích ứng về chiến lược nêu ra trên đây, mùa Xuân năm 1992, các nhà khoa học vật lý hải dương, công trình biển và thềm lục địa thuộc Phân viện Khoa học Việt Nam tại TP. HCM đã quyết định một chương trình nghiên cứu các điều kiện tự nhiên cùng các điều kiện kinh tế xã hội và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về địa lý kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - an ninh quốc phòng.

Chương trình này nhằm tìm kiếm, lựa chọn các vị trí có thể xây dựng được cảng biển nước sâu và khu công nghiệp dọc duyên hải miền Trung, bao gồm các cửa biển Quy Nhơn, Đề Gi, An Dũ, Tam Quan (Bình Định); Sa Huỳnh, Trà Cầu, Cửa Đại, vịnh Dung Quất (Quảng Ngãi); Kỳ Hà và Chân Mây (Thừa Thiên - Huế).

Sau khi phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu, đã lựa chọn được ba địa điểm hội tụ đủ điều kiện để xây dựng cảng biển nước sâu và khu công nghiệp, thương mại, du lịch dịch vụ là Dung Quất (Đông Bắc Quảng Ngãi), Chân Mây (Đông Nam Thừa Thiên - Huế) và Nhơn Hội (Bình Định).

Các kết quả nghiên cứu và đề xuất trên đây đã được Đảng và Nhà nước phê duyệt và ra các quyết định quan trọng, có tác động to lớn lâu dài đối với lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước.

Mùa Thu năm 1994, sự phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp Dung Quất đã dẫn đến sự ra đời vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, kéo dài từ Liên Chiểu (Quảng Nam - Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng Ngãi) và hình thành trục phát triển công nghiệp - du lịch - dịch vụ dọc theo vùng duyên hải từ Đà Nẵng đến Dung Quất cùng với đường quốc lộ 24 và 14 nối tiểu vùng sông Mekong.

Mùa Xuân năm 1996, việc phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu công nghiệp - thương mại - du lịch dịch vụ Chân Mây đã dẫn đến sự phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ra đến Thừa Thiên - Huế và mùa Thu năm 2004, việc phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và Khu kinh tế Nhơn Hội đã dẫn đến sự mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung về phía Nam đến Bình Định (đường 19).

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với diện tích 27.884km2, có dân số khoảng 6,2 triệu người (năm 2006) và dự báo đến 2025 là 8,15 triệu người. Chuỗi đô thị đang phát triển của vùng trải dài theo 558km bờ biển, gồm Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và các khu kinh tế lớn như Chân Mây - Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội.

Vùng trọng điểm kinh tế miền Trung có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Là mặt tiền của cả nước, của tiểu vùng sông Mekong, từ đây có thể nối với các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar và xa hơn nữa là các nước Nam Á và vùng Tây Nam Trung Quốc qua các trục hành lang Đông - Tây, đường 9, đường 14, đường 24, đường 19.

Từ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có thể đi ra thế giới bằng hệ thống các cảng biển nước sâu và hệ thống các cảng hàng không. Có trục hạ tầng lớn của đất nước (đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt xuyên Việt, đường điện 500KV, đường cáp quang và vi ba xuyên quốc gia). Nơi đây còn có 13 trường đại học, bốn di sản văn hóa thế giới (cố đô Huế, Hội An, Mỹ Sơn và văn hóa phi vật thể nhã nhạc cung đình Huế).

Trong 18 năm qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng này đã có đột phá lớn chưa từng có. Từ chỗ nguồn vốn đầu tư chỉ vài chục triệu USD (năm 1990), đến nay, nguồn vốn đó đã lên đến vài chục tỉ USD (tăng khoảng 1.000 lần). Nhờ đó, một vùng non nước nghèo nàn với sản xuất nông nghiệp nhỏ và lạc hậu đã nhanh chóng trở thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của đất nước.

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với con đường di sản và thiên nhiên tuyệt đẹp đã và đang đóng vai trò quan trọng trong hệ thống du lịch của đất nước. Sự bùng nổ về phát triển kinh tế ở miền Trung đã từng bước đem lại sự đổi đời cho vùng đất nghèo khó này. Điều đó có thể thấy một cách cụ thể như ở Quảng Ngãi: từ chỗ ngân sách của tỉnh chỉ có 160 tỉ đồng, giờ đây tỉnh này đã bước vào câu lạc bộ 2.000 tỉ và sắp đến sẽ còn tiến xa hơn nữa.

Sự liên kết trên con đường phát triển

Để có điều kiện phát triển và phát huy vai trò động lực của mình, cần thiết phải nghiên cứu các giải pháp và khả năng liên kết giữa các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng như liên kết giữa các khu kinh tế trong vùng này, đồng thời xem xét, tìm kiếm các giải pháp liên kết với các vùng trong nước và thế giới.

Trải qua hơn một thập niên hình thành vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, sự phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương đã thể hiện rõ dần thế mạnh và khả năng liên kết của từng tỉnh với các địa phương khác. Vấn đề là cần tìm ra một cơ chế và cách ứng xử để vượt qua rào cản tâm lý địa phương và địa giới hành chính.

Để làm được việc đó, cần phải tập hợp các nhà quản lý làm việc theo tinh thần của những người lính trên mặt trận phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ứng xử và hợp tác với nhau theo tinh thần đó thì nhất định sẽ tạo được một bước chuyển biến vô cùng to lớn. Nhìn vào thế mạnh của từng địa phương, có thể thấy có những sự khác biệt và đặc thù và có thể nêu ra sự liên kết hợp lý và hoàn toàn hiện thực hóa được như sau:

- Giữa Huế và Đà Nẵng có thể liên kết trong việc đào tạo nguồn nhân lực nhằm cung cấp cho toàn vùng trọng điểm kinh tế miền Trung và cho cả nước. Sự phối hợp giữa cảng Đà Nẵng và cảng Chân Mây sẽ hình thành được một trung tâm sản xuất - thương mại tầm cỡ quốc tế, cụ thể là đối với các nước tiểu vùng sông Mekong và khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đà Nẵng và Huế là khu vực có nhiều tiềm lực để xây dựng và phát triển nền công nghiệp phụ trợ cho miền Trung và cả nước. Ngành công nghiệp phụ trợ có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo giá trị gia tăng cho các ngành sản xuất công nghiệp, đặc biệt với các khu công nghiệp lớn ở vùng trọng điểm kinh tế miền Trung.

Giữa Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam sẽ hình thành một khu du lịch và dịch vụ lớn của miền Trung, cũng như của cả nước, trên cơ sở triển khai con đường di sản theo cung đường Hải Vân - Chân Mây - Lăng Cô - Bạch Mã. Quá trình liên kết và phát triển sẽ dẫn đến hình thành thành phố sinh đôi Huế - Đà Nẵng làm trung tâm văn hóa - khoa học công nghệ cho toàn miền Trung và Tây Nguyên.

Con đường hợp tác và phát triển nêu ra trên đây của Huế và Đà Nẵng sẽ đem lại sức sống và là chỗ dựa cơ bản cho các khu kinh tế tổng hợp, đa ngành là Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội phát huy vai trò nòng cốt trong việc phát triển một nền công nghiệp hiện đại của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

- Sự liên kết giữa Chu Lai, Dung Quất và Nhơn Hội sẽ được hình thành trên cơ sở liên kết cụm ngành, bao gồm các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo máy, đóng tàu, vận tải biển, sản xuất thép, chế biến nông lâm, thủy, hải sản. Với sự thành công và đi trước một bước, Dung Quất có thể tạo mối liên kết về lọc hóa dầu, vật liệu xây dựng, luyện thép với Nghi Sơn, Vũng Án, Hòn La.

Sự liên kết này thể hiện trên nhiều mặt như thương hiệu, sản phẩm, kỹ thuật, thị trường…, giúp cho các doanh nghiệp trong vùng thúc đẩy việc tăng năng suất, sản lượng hàng hóa. Trên con đường phát triển của mình, các khu vực Đông Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan, Nam Lào, Myanmar… sẽ cần nhiều các sản phẩm dầu khí, sắt thép, vật liệu xây dựng, máy móc, thiết bị, phân bón từ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời các khu vực trên cần xuất các sản phẩm nông, lâm, thổ sản, vật liệu, khai khoáng, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ qua các cảng Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Quy Nhơn, Nhơn Hội.

Nằm giữa hai vùng kinh tế đầy tiềm năng và đang phát triển là tiểu vùng sông Mekong và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Tây Nguyên với diện tích 45.855km2, dân số khoảng hai triệu người là vùng có vị trí chiến lược quan trọng về địa lý, kinh tế, chính trị, và an ninh quốc phòng. Đây là vùng giàu có về tài nguyên, đặc biệt là nông, lâm, thổ sản và cây công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao, điều, hồ tiêu, cùng hàng trăm triệu mét khối gỗ, hàng tỉ tấn quặng bô xít, đá quý, vật liệu xây dựng cùng hệ thống thủy điện to lớn và phát triển.

Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đang bước vào thời kỳ phát triển chưa từng có trong lịch sử của mình. Được sinh ra và hình thành trên lĩnh vực kinh tế biển, vùng này đang trở thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước, ngày càng có tác động lớn tới sự phát triển nền kinh tế quốc dân và rộng hơn, còn có vai trò quan trọng trong sự phát triển của tiểu vùng sông Mekong.

Theo TS. TRƯƠNG ĐÌNH HIỂNDoanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên