- Theo chính các học giả Trung Quốc, "đường lưỡi bò" chính thức xuất hiện lần đầu tiên trên một bản đồ do chính quyền Cộng hòa Trung Hoa xuất bản vào tháng 2-1948.
Phóng to |
Các học giả Trung Quốc gọi đường này là "đường chữ U" (U shaped line) hoặc "đường đứt khúc" (the dotted line), còn một số học giả khác gọi nó là "đường lưỡi bò" bởi đơn giản là nhìn nó trên bản đồ giống "một cái lưỡi bò liếm xuống biển Ðông".
"Ðường lưỡi bò" được thể hiện trên bản đồ của Cộng hòa Trung Hoa lúc này là một đường đứt khúc gồm 11 đoạn. Trong bản đồ đó "đường lưỡi bò" này được thể hiện bao trùm xung quanh cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Ðông, đó là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels), Trường Sa (Spratlys), Pratas (Trung Quốc gọi là Ðông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa).
Năm 1953, Thủ tướng Chu Ân Lai đã phê chuẩn việc bỏ hai đoạn đứt khúc, một đoạn nằm giữa đảo Hải Nam và bờ biển VN trong vịnh Bắc bộ, một đoạn nằm giữa Ðài Loan và các đảo Lưu Cầu (Ryukyu) của Nhật Bản, như vậy "đường lưỡi bò" từ giai đoạn này trở đi là một đường đứt khúc chỉ còn chín đoạn.
Khó biểu thị là đường biên giới
Phóng to |
- Ðặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát. "Ðường lưỡi bò" lại không có tính ổn định và xác định. Nói như Du Khoan Tứ, giáo sư luật ÐH Quốc lập, Ðài Loan: "Ðường ranh giới chữ U không những được xác định trước khi Công ước Geneva 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải và UNCLOS 1982 xuất hiện, mà còn không có điểm cơ sở, cũng không có mốc kinh độ, vĩ độ, vì thế nó khó mà biểu thị là một đường biên giới được".
Nhiều học giả Trung Quốc khác cho rằng vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của Trung Quốc. Theo đó, tất cả đảo, đá, bãi ngầm, vùng nước nằm trong "đường lưỡi bò" đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
16.000km2 là vùng biển do huyện đảo Hoàng Sa (TP Đà Nẵng, Việt Nam) quản lý. Trong vùng biển này có hơn 30 đảo, bãi đá san hô và bãi cạn. Vào ngày 25-4-2009, ông Đặng Công Ngữ - thành ủy viên, giám đốc Sở Nội vụ TP Đà Nẵng - được bổ nhiệm kiêm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Ông Ngữ có thời hạn bổ nhiệm kiêm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa trong vòng năm năm kể từ ngày công bố quyết định. |
- "Ðường lưỡi bò" bị phản đối bởi vì nó quá vô lý. Thứ nhất, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa. Các chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì một sự độc tôn nào trong vùng biển này.
Mặt khác, các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Ðại Nguyên nhất thống chí (1294), Ðại Minh nhất thống chí (1461), Ðại Thanh nhất thống chí (1842), trước năm 1909 đều khẳng định "cực nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam".
Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời đều vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ 17 của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc Công ty Ðông Ấn (Hà Lan) cũng có lời giải thích rất rõ: nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía nam đảo Hải Nam ở 18O vĩ bắc, rồi từ đó ngược lên phía bắc đến vĩ độ 42O.
Trung Quốc bước chân lên quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo này từ lâu đã thuộc VN, không còn là đất vô chủ. Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, công hàm ngày 29-9-1932 của phái đoàn ngoại giao Trung Hoa dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo Amphitrite (Lưỡi Liềm) và Croissant (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) "tạo thành phần lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía nam" (tức là Trường Sa chưa xuất hiện trên bản đồ chủ quyền của Trung Quốc).
Về mặt luật pháp quốc tế, ngay cả các học giả và chính quyền Trung Quốc cũng đưa ra những giải thích trái ngược nhau. Chẳng hạn Phan Thạch Anh cho rằng các vùng nước nằm bên trong "đường lưỡi bò" là vùng nước theo chế độ nội thủy của Trung Quốc, nhưng tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lại nhấn mạnh rằng: "Chiều rộng lãnh hải nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Ðài Loan và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ)... cùng tất cả đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả".
Như vậy, tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả (vùng biển tự do của quốc tế), chứ không phải là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy (vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc). Ðiều này mâu thuẫn với sự giải thích của các học giả Trung Quốc, vì không thể tồn tại vùng biển tự do của quốc tế nằm trong nội thủy của Trung Quốc.
Không hợp quy định của luật pháp quốc tế
* Người Trung Quốc "xác định vùng nước lịch sử bằng đường lưỡi bò" như vậy có hội tụ yếu tố pháp lý nào không? Việc xác định này vi phạm những quyền lợi nào của VN ở biển Ðông?
- Theo các học giả Ðài Loan như Tống Yến Huy, Du Khoan Tứ, vùng nước bên trong "đường lưỡi bò" đều không thể áp dụng quy chế nào theo thông lệ quốc tế vì nó không đủ các yếu tố để có thể chứng minh một cách hợp pháp dưới các quy định của luật pháp quốc tế.
Về phản ứng của quốc tế, tại hội nghị San Francisco tháng 9-1951, các quốc gia tham gia đã khước từ đề nghị trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Và thực tế tranh chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa VN và Trung Quốc hay tranh chấp chủ quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa VN, Malaysia, Philippines, Brunei, Ðài Loan và Trung Quốc cho thấy không thể nói "đường lưỡi bò" được các quốc gia khác công nhận. Như vậy, có thể nói yêu sách này chưa bao giờ có được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế.
Vùng nước nằm trong "đường lưỡi bò" chiếm 80% diện tích biển Ðông mà Trung Quốc cho là "vùng nước lịch sử" là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một vùng biển lớn vào loại nhất, nhì thế giới lại nằm dưới quyền tài phán của duy nhất một nước.
Yêu sách về "đường lưỡi bò" này không chỉ vi phạm quyền lợi của VN mà còn đụng chạm tới quyền lợi của hầu hết các quốc gia trong khu vực ASEAN cũng như các quốc gia liên quan. Nếu yêu sách chiếm gần 80% toàn bộ biển Ðông được chấp nhận, tất cả tàu thuyền qua lại vùng biển này đều phải được sự cho phép của chính quyền Trung Quốc mới được phép lưu thông. Chưa kể tất cả tài nguyên trong vùng biển này từ tài nguyên sinh vật đến tài nguyên không sinh vật đều thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Quyền tự do lưu thông trên biển cả sẽ bị đe dọa nghiêm trọng, thương mại quốc tế qua vùng biển này sẽ bị Trung Quốc khống chế.
3 điều kiện của “vịnh hay vùng nước lịch sử” Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực hiện quyền lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong một số hoàn cảnh hạn chế. Năm 1962, Ủy ban Pháp luật quốc tế đã thực hiện một nghiên cứu với tựa đề: “Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vịnh lịch sử”, trong nghiên cứu này đã có những câu trả lời cho câu hỏi những tiêu chuẩn nào sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp của một yêu sách chủ quyền lịch sử. Theo đó, một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các án lệ quốc tế phải thỏa mãn tối thiểu ba điều kiện sau: 1. Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2. Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3. Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận