03/01/2008 05:00 GMT+7

Tai nạn y khoa trong bệnh viện

GS NGUYỄN VĂN TUẤN
GS NGUYỄN VĂN TUẤN

TT - Một bài viết có tựa đề khá sốc "Bệnh do... bác sĩ”. Một bệnh nhân chết sau khi trải qua một cuộc phẫu thuật phức tạp (cắt bỏ đại tràng), nhưng các chuyên gia không nhất trí về nguyên nhân tử vong và đổ lỗi cho bác sĩ.

2jBmGVwW.jpgPhóng to
Bé N.M.Q. - một trong sáu trẻ em bị tai biến nghiêm trọng sau khi chích ngừa văcxin Priorix hồi tháng 5-2006. Sở Y tế TP.HCM đã kết luận vụ này "chỉ là một tai nạn nghề nghiệp không ai muốn" _ Ảnh: L.TH.H
TT - Một bài viết có tựa đề khá sốc "Bệnh do... bác sĩ”. Một bệnh nhân chết sau khi trải qua một cuộc phẫu thuật phức tạp (cắt bỏ đại tràng), nhưng các chuyên gia không nhất trí về nguyên nhân tử vong và đổ lỗi cho bác sĩ.
Nghe d?c n?i dung toàn bài:

Phải đau lòng mà chấp nhận một thực tế là những trường hợp như thế này sẽ còn xảy ra trong tương lai. Vấn đề không phải là qui kết lỗi lầm cá nhân, mà là tìm hiểu nguyên nhân của hệ thống vận hành và tiến đến một phương án an toàn hơn trong bệnh viện.

Viện Y khoa Mỹ (Institute of Medicine) định nghĩa sai sót y khoa là "thất bại trong việc thực hiện một việc làm (không theo như ý định được vạch ra lúc ban đầu), hay sai lầm trong lúc lên kế hoạch hành động để hoàn tất một mục tiêu". Nói cách khác, sai sót xảy ra trong khi hoạch định và trong lúc thực thi một kế hoạch hành động.

Những sai sót này có thể tóm lược và phân loại (xem Những loại sai sót lâm sàng). Chẳng hạn như sự cố do phản ứng của thuốc, truyền dịch không đúng, tổn thương do giải phẫu gây ra và giải phẫu sai vị trí, tự tử, những tổn thương hay tử vong do sự kiềm chế quá đáng trong khi thực thi một ca mổ, té, bỏng, điều trị sai bệnh nhân vì lầm tên họ… được xem là sai sót y khoa.

Hệ quả

Theo một nghiên cứu nổi tiếng vào giữa thập niên 1980, trong 51 bệnh viện trên khắp nước Mỹ, khoảng 3,7% bệnh nhân là nạn nhân của các sai sót y khoa; trong số 3,7% này, gần 1/3 là do cẩu thả, sơ suất trong khi điều trị và 70% là do lỗi lầm của các nhân viên y tế (bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng...). Hệ quả là ở Mỹ hằng năm có khoảng 100.000 người bệnh vì lỗi lầm của bác sĩ và nhân viên y tế. Thật vậy, sai sót y khoa là nguyên nhân lớn nhất (so với bất cứ bệnh nào, kể cả tai nạn giao thông) gây ra nhiều cái chết cho người Mỹ!

Úc là một nước rất tự hào về an toàn y khoa, nhưng kết quả của một nghiên cứu vào giữa thập niên 1990 làm cho cả nước và giới y khoa bàng hoàng. Theo nghiên cứu này, 8% bệnh nhân nằm viện trải qua ít nhất một sai sót y khoa. Các nhà nghiên cứu còn ước tính mỗi năm có khoảng 18.000 người Úc thiệt mạng và 50.000 người bị thương tật vĩnh viễn do những lỗi lầm trong bệnh viện gây ra và những lỗi lầm này có thể phòng ngừa. Dân số Úc lúc đó là 17 triệu người.

Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu tương tự để biết qui mô của vấn đề. Tuy nhiên, nếu chấp nhận tỉ lệ tai nạn 7% (tần số trung bình ở Mỹ, Úc, Canada và châu Âu), với tổng số bệnh nhân điều trị nội trú 7.050.000 (số liệu Bộ Y tế năm 2003), chúng ta có thể ước tính hằng năm con số bệnh nhân trải qua tai nạn y khoa và bị chết "oan", bị thương tật vĩnh viễn ở nước ta cũng rất lớn.

Đó là một con số tử vong rất lớn, chiếm khoảng 15% tổng số tử vong của cả nước (khoảng 437.000 ca tử vong). Tuy nhiên, các ước tính này thấp hơn thực tế vì chưa tính đến số bệnh nhân được điều trị ngoại trú (khoảng 5.511.000 bệnh nhân).

Lề lối của hệ thống

Hiện nay, mỗi khi có sai sót và sự cố xảy ra, người ta thường nhắm đến cá nhân. Cách giải quyết này chú trọng vào cá nhân (bác sĩ, nhà giải phẫu, y tá, dược sĩ...) và cho rằng lỗi lầm là do sự sai lệch trong quá trình suy tính như lãng quên, thiếu chú ý, thiếu động cơ thúc đẩy, bất cẩn, cẩu thả và liều lĩnh. Cách làm giảm những hành động này, do đó, thường tập trung vào việc trừng phạt (cảnh cáo, cách chức, kiện cáo).

Nhưng cách giải quyết trên thường không đem lại hiệu quả cao. Một cách giải quyết vấn đề tốt hơn là xem xét đến hệ thống vận hành của bệnh viện. Theo quan điểm mới, sai sót y khoa là một hệ quả (thay vì nguyên nhân), xuất phát không hẳn hoàn toàn từ con người mà từ hệ thống tổ chức.

Vì thế, theo quan điểm này, khó mà thay đổi điều kiện con người (tức biến con người thành một cái máy), và cách giảm lỗi lầm hữu hiệu nhất là thay đổi guồng máy tổ chức. Và do đó, muốn thay đổi hệ thống chăm sóc, thay vì chú trọng vào việc tìm lỗi phải từ cá nhân, các nhà nghiên cứu lâm sàng đang tìm cách sửa đổi lề lối tổ chức và vận hành của các bộ phận có quan hệ tới việc chăm sóc, chữa trị các bệnh nhân bệnh nặng và khẩn cấp.

Hệ thống y tế, cũng giống như bất cứ hệ thống nào khác, chỉ an toàn khi nào sai sót được ghi nhận như là một điều không thể tránh khỏi, và hệ thống y tế được tổ chức sao cho tối thiểu hóa sai sót và hệ quả. Thay vì tập trung vào đổ lỗi cho cá nhân người thầy thuốc, hay đi tìm những câu trả lời cho những câu hỏi sai, chúng ta cần tiếp cận vấn đề sai sót y khoa từ quan điểm hệ thống.

Vài trường hợp sai sót

Dana Carvey là một danh hài người Mỹ. Hai tháng sau khi Carvey trải qua một cuộc giải phẫu cơ tim nhân tạo, bác sĩ cho ông biết rằng đã thay nhầm động mạch! Thế là người nghệ sĩ danh tiếng 45 tuổi này phải một lần nữa trải qua một cuộc giải phẫu khẩn cấp để cứu mạng.

Ông Morson Tarason, 79 tuổi, được vào Bệnh viện Đại học Pennsylvania (bang Philadelphia) để giải phẫu chữa trị lá phổi bên trái; nhưng thay vì chữa trị lá phổi bị bệnh đó, các bác sĩ đã cắt nhầm lá phổi tốt bên phải! Đau lòng hơn, sau khi các bác sĩ đã biết được sự nhầm lẫn của mình, họ bèn âm thầm và thản nhiên hẹn cụ trở lại bệnh viện để làm một ca giải phẫu thứ hai để chữa trị lá phổi trái!

Tháng 11-1994, hai bệnh nhân nữ được điều trị tại Viện Ung thư Dana-Farber (một trung tâm y tế danh tiếng của Mỹ ở Boston) và do tính toán sai, cả hai bệnh nhân "bị” đầu độc với liều lượng hóa chất quá cao. Cả hai bệnh nhân đều qua đời.

Những loại sai sót lâm sàng

Chẩn đoán

• Chẩn đoán sai sót hay chậm trễ.

• Không sử dụng các xét nghiệm được chỉ định.

• Xét nghiệm không thích hợp.

• Thiếu hành động thích hợp khi có kết quả xét nghiệm.

Điều trị

• Sai sót trong việc thực hiện một thuật điều trị hay giải phẫu.

• Sai sót trong việc cho uống thuốc.

• Sai sót về liều lượng thuốc.

• Chậm trễ trong việc điều trị.

Phòng ngừa

• Không tiến hành can thiệp để phòng ngừa bệnh.

• Thiếu theo dõi bệnh nhân hay theo dõi không đầy đủ.

Các sai sót khác

• Cung cấp thông tin sai cho bệnh nhân.

• Thiết bị sử dụng bị hư hỏng và ảnh hưởng đến bệnh.

• Sai sót mang tính hệ thống.

GS NGUYỄN VĂN TUẤN
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên