Phóng to |
Giếng nước trong lòng địa đạo Vịnh Mốc - Ảnh: Sĩ Sô |
Căn cứ hậu cần chốn tiền đồn
Một địa đạo do cán bộ chiến sĩ đồn 140 đào, một của dân quân Vịnh Mốc đào, cái còn lại của dân quân thôn Sơn Hạ. Ban đầu đây là ba địa đạo riêng lẻ, nhưng sau đó do yêu cầu phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu nên cả ba địa đạo được nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn dài hàng cây số, nhiều tầng sâu khác nhau và có 13 cửa, trong đó có bảy cửa thông ra biển và sáu cửa thông lên đồi. Chưa kể chạy quanh địa đạo là hệ thống hào giao thông dài 8.200m.
Điều đặc biệt trong hệ thống hơn 100 địa đạo - làng hầm ở Vĩnh Linh là các tầng ngầm với độ sâu khác nhau: tầng 1 dành làm nơi sinh sống của đồng bào; tầng 2 là nơi đóng trụ sở của đảng ủy - ủy ban và ban chỉ huy lực lượng vũ trang; tầng 3 chính là kho hậu cần, vị trí an toàn nhất cất giữ hàng ngàn tấn hàng hóa, vũ khí đạn dược đưa từ hậu phương miền Bắc vào cất giữ, rồi từ đây đêm đêm theo thuyền ra tiếp tế chi viện cho đảo Cồn Cỏ và cuộc chiến đấu của đồng bào ở bờ nam...
Để đưa hàng ngàn mét khối đất đỏ bazan đào lên đem đi đổ sao cho địch không phát hiện cũng đã là một chuyện gian nan. Trong lúc cánh đàn ông lo việc đào địa đạo thì phần việc đưa đất đi đổ được chị em gánh vác. Đêm đêm đất được đổ ra biển, qua một đêm sóng biển đánh tan vào lòng, đêm mai từ dưới những tầng sâu, từng rổ đất lại được chuyền lên mặt đất, lại mang ra biển, phải hàng triệu rổ đất như thế, cả Vĩnh Linh ước tính gần 4 triệu mét khối đất được đào lên.
Một sáng kiến của ông Lê Xuân Vy đến bây giờ vẫn được bà con nhắc là việc cất giữ gạo để nấu cơm cho nhân dân cũng như các lực lượng vũ trang, bán vũ trang tại địa đạo. Ban đầu gạo được cất dưới tầng sâu cho an toàn nhưng trong đất sâu độ ẩm cao, gạo rất dễ bị mốc. đã thế mỗi lần lấy gạo nấu cơm từ tầng này đến tầng khác đi lại rất mất thời gian.
Ông Vy đã nghĩ ra cách đào hầm chứa gạo gần trên mặt đất nhưng ngụy trang kỹ, không cho địch phát hiện. Gạo để trên cao không bị mốc, dễ chống ẩm, từ hầm gạo này đặt các ống cao su dẫn chảy về các bếp. Mỗi lần nấu cơm chỉ việc mở vòi ra cho gạo chảy vào nồi, lấy đủ nấu là gập vòi lại, một điều ngỡ rất giản dị nhưng những ngày tháng ấy là cả chuyện sống còn của hàng ngàn người dân Vịnh Mốc.
Rồi chuyện giếng nước, chuyện nhà vệ sinh dưới lòng đất, cả cách nấu ăn sao cho khói bếp không bay lên trên mặt đất mà lại không gây ngạt dưới lòng địa đạo đều phải tính.
Cái khó ló cái khôn, những ngày tháng ấy để lo cho cuộc chiến đấu ngay nơi mình đang ở đã là gian khó, vậy mà những người dân Vịnh Mốc còn phải lo cho cả hòn đảo nhỏ Cồn Cỏ ngoài khơi Vịnh Mốc. Đêm đêm những con thuyền nhỏ chạy bằng buồm và chèo tay âm thầm vượt mấy chục cây số chở hàng ra đảo. Những ngày địch điên cuồng đánh phá, chặn đường ra đảo, những ngư dân từ địa đạo Vịnh Mốc này đã lập thành đội cảm tử đi chi viện.
Hành trình máu…
Hàng ngàn tấn vũ khí, kể cả pháo 75, cao xạ 37 li, lương thực vật dụng đã được những chiếc thuyền gỗ chạy buồm chèo tay đơn sơ chở từ đất liền ra, đủ cho các chiến sĩ ngoài đảo sống không đến nỗi thiếu thốn và chiến đấu liên tục hàng hai ba năm. Nhưng cái giá của mỗi viên đạn, mỗi hạt gạo đều phải tính bằng máu. Hàng trăm gia đình ở các xã ven biển có người hi sinh hoặc bị địch bắt đi mất tích. Có một số đội sản xuất gần như tất cả mọi người trong đội quấn khăn tang. Tôi biết đêm nay, cũng như chúng tôi, ngồi trên doi đất này có những ông bố bà mẹ, những người vợ, những đứa con cũng không ngủ. Lúc chập tối họ đã bốc hàng từ địa đạo lên thuyền cho người thân chở ra đảo. Bây giờ họ ngồi trong hầm, hướng ra biển, lắng nghe, chờ đợi với tất cả nỗi lo lắng, hồi hộp... (Trích Ký sự miền đất lửa) |
Thật ra quân Mỹ cũng không quá ngây thơ để không biết rằng hòn đảo Cồn Cỏ bé tí nằm ngay trước mũi chúng lại đủ đạn đủ gạo đánh trả kiên cường suốt ngày này tháng khác với hàng trăm máy bay tàu chiến thì chỉ có thể nhờ vào sự chi viện của đất liền. Và đấy phải là nơi gần nhất từ bờ ra đảo.
Vịnh Mốc ra Cồn Cỏ gần hơn từ Cửa Tùng ra Cồn Cỏ khoảng 2km (28km so với 30km). Hai kilômet bây giờ với thuyền máy công suất cao không là gì cả, nhưng những năm ấy chỉ với thuyền buồm mỏng mảnh, ngược gió phải chèo tay thì đấy là một khoảng cách đáng kể.
Và thế là máy bay ngày ngày quần nát vùng biển phía đông Vĩnh Linh, nhất là doi đất mũi Lài rất gần Cồn Cỏ kia. Bằng mọi giá chúng phải chặn đường tiếp tế.
Mùa hè năm 1965, khi đường tiếp tế giữa đất liền và đảo gần như bị phong tỏa, máy bay tàu chiến thay nhau suốt ngày chặn từ biển. Đảo đánh tín hiệu nguy ngập vào đất liền vì gạo hết, đạn thiếu, nước ngọt cũng cạn kiệt vì bể chứa nước ngọt dự trữ của đảo đã bị một quả bom rơi trúng ngay trong trận đánh phá đầu tiên.
Biết tình hình đảo như thế, địch vừa tăng cường đánh phá bằng máy bay vừa vây chặt bằng tàu chiến, và kèm theo đó là “hiểm độc kế”: mang 50 ngư dân của ta bị chúng bắt trước đó thả lên đảo. Bộ đội trên đảo đã đói, đã thiếu lại phải chia sẻ với đồng bào nên lương thực và nước uống càng cạn nhanh hơn. Những ngày đảo nhỏ nguy ngập ấy Đảng ủy Vĩnh Linh phát lời kêu gọi: Tất cả vì đảo!
Biết là cuộc ra đi tiếp tế cho đảo sẽ một mất một còn nhưng những ngư dân Vịnh Mốc không thể đành lòng, hàng ngàn ngư dân vùng biển Vĩnh Linh cũng thế, họ làm đơn tình nguyện đi tiếp tế cho đảo.
Trong cuốn Ký sự miền đất lửa của đồng tác giả Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh (ông Vũ Kỳ Lân thời điểm những năm ấy là chính ủy Bộ chỉ huy quân sự đặc khu Vĩnh Linh, còn ông Nguyễn Sinh là phóng viên thường trú Báo Nhân Dân tại đây) có viết về những nhân chứng của hành trình tiếp viện cho Cồn Cỏ: .
..Cụ Mò ở Vĩnh Thạch, cả nhà ba cha con cùng đi đảo... Tháng 6-1965 hai người con của cụ là anh Tỷ và anh Triêm cùng đi một chuyến. Gặp tàu địch anh Tỷ hi sinh. Thuyền anh Triêm bị bắn chìm nhưng anh bơi được vào bờ. Cụ Mò đau khổ vì mất con trai nhưng ngay sau đó cụ lên xã xin đi thay cho con…
Đúng 40 năm sau những ngày tháng ấy, chúng tôi về lại thôn Vịnh Mốc, ngồi trong ngôi nhà ông Hồ Triêm. Trên tường nhà ông treo tấm bằng Tổ quốc ghi công mang tên liệt sĩ Hồ Tỷ - anh trai của ông - đã hi sinh trong đợt tiếp viện cho Cồn Cỏ.
Ông Triêm nay cũng đã 70 tuổi, ngôi nhà ông ngay bên chân sóng Vịnh Mốc, xen qua mấy hàng dương là tiếng sóng biển ầm ào. Ngay bên mép sóng là mộ của anh trai ông. Trong những ngày máu lửa ấy, đội tiếp viện cảm tử của Vịnh Mốc đã hi sinh 11 người. Sau hòa bình thêm nhiều người ra đi vì tuổi tác, ông Triêm là một trong vài người còn lại.
Chi viện hàng hóa cho Cồn Cỏ là những chiếc thuyền gỗ mỏng mảnh với chừng 2 tấn hàng hóa, vũ khí, mỗi thuyền sáu người gồm ba chiến sĩ bộ đội và ba dân quân. Trời sập tối liền bốc hàng hóa lên thuyền, chừng 19g thì bắt đầu căng buồm nương gió mà đi.
Chuyến đầu đoàn tiếp tế gồm 11 thuyền với nước ngọt, vũ khí, lương thực đã ra đảo an toàn. Đi về trót lọt ai cũng mừng. Tuy thuyền buồm và chèo tay nhưng thuận gió thuận nước chừng hơn 22g là đã đến Cồn Cỏ. Nhưng cũng có những đêm đi mãi trong mù sương không vào được đảo.
Phương tiện hiện đại nhất mà anh em ngư dân cảm tử trên các thuyền chi viện có được là những chiếc bộ đàm và nhờ nó để liên lạc trực tiếp với khu ủy. Những lần lạc như thế, gọi vào đất liền thường là ngay sau đó bộ chỉ huy quân sự yêu cầu anh em trên đảo bắn pháo rồi hướng dẫn anh em ngư dân nghe theo tiếng pháo nổ mà xác định phương hướng.
Nhưng nguy hiểm nhất vẫn là chuyện đụng tàu địch. Tàu sắt vây quanh đảo, dàn hàng ngang chặn giữa đảo và bờ, cái đêm ông Hồ Tỷ - anh trai ông Triêm - hi sinh là một đêm như thế. Ký ức của ông Triêm sau 40 năm tròn dường như vẫn chưa nguôi cái đêm bốn chiếc thuyền gỗ nhỏ nhoi đánh nhau với tàu sắt của địch trên đường chi viện cho Cồn Cỏ. Không ai nghĩ đến chuyện sợ chết mà chỉ sợ số vũ khí chở ra cho đảo bị rơi vào tay giặc...
Từ đó cho đến hết năm 1968 không đếm hết bao nhiêu chuyến đi, bao nhiêu vũ khí, lương thực đã được đưa ra đảo. Cuộc chiến đấu được tăng thêm sức mạnh không chỉ vì Cồn Cỏ thân yêu, mà còn để trả thù cho những người dân vô tội đất Vĩnh Linh đã bị địch ném bom vùi lấp dưới lòng địa đạo quê hương…
----------
* Kỳ sau: 30 nấm mộ tập thể
----------------
Tin, bài liên quan:
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận