![]() |
Ông Lại Nguyên Ân - Ảnh: Bùi Tuấn |
Ðó là vào khoảng thời gian cuối năm 2000, từ đó đến nay công việc đọc, biên soạn, thực hiện bản thảo dựa trên các bản chụp vi phim được âm thầm tiến hành. Cho đến trung tuần tháng 3-2010 cuốn Vũ Bằng - Các tác phẩm mới tìm thấy (NXB Văn Hóa Sài Gòn) mới ra mắt độc giả.
Nhân dịp này Tuổi Trẻ có cuộc trò chuyện với ông Lại Nguyên Ân...
* Như ông nói, qua những trang viết của Vũ Bằng (trong cuốn này) các biến cố xã hội (VN và thế giới) khoảng năm 1945-1946 hiện ra thật rõ nét - điều ít tìm thấy ở các nhà văn VN đương thời. Ðiều này là do duyên may (nhờ công việc làm báo của Vũ Bằng) hay nhờ bản lĩnh?
- Tôi nghĩ do cả hai: bản lĩnh và duyên may.
Khi Vũ Bằng ngồi ghế chủ bút một tuần báo nào đấy, dường như ông luôn nghĩ người đọc hiện đang cần biết những gì, trên toàn thế giới và tại xứ mình đang xảy ra những chuyện gì. Vậy là ông tìm cách đặt bài người này người kia hoặc tự mình đi phỏng vấn, tự tay viết hoặc dịch từ nguồn tin bên ngoài...
Trong sưu tập này bạn không thể thấy những việc ở tòa soạn, ví dụ điều mà nhà văn Kim Lân hồi sinh thời đã kể với tôi: biết Kim Lân khi ấy sống ở nông thôn (Chợ Dầu, Bắc Ninh), Vũ Bằng khuyên ông nên viết về các chuyện phong tục làng quê, vì vậy ông đã có được một mảng truyện khá, về sau ông sẽ đi tiếp mạch này để đạt tới những trang của Làng hay Vợ nhặt.
"Tôi muốn đưa tới người đọc những tác phẩm của Vũ Bằng mà ngay cả những bạn đọc yêu giọng văn riêng của nhà văn này cũng còn chưa biết" |
Các năm 1945-1946 ở Hà Nội cũng có không ít nhà văn làm việc trong các tòa báo, nhưng có thể hoặc vì sự thờ ơ hoặc vì sự cực đoan nên có quá ít người để lại cho hậu thế được những trang ghi thời sự tương đối rõ người rõ việc như Vũ Bằng.
Nhiều chục năm trước đây, các nhà giáo biên soạn sách đốt đuốc đi tìm, chỉ thấy được hai dấu vết “chứng nhân thời đại”: bài tùy bút của Nam Cao trên tờ Tiên Phong của Hội Văn hóa cứu quốc và bài tùy bút của Nguyễn Tuân trên tờ Văn Mới.
Bây giờ với sưu tập này, chúng ta biết thêm trên 10 bài của Vũ Bằng ghi chuyện thời sự 1945-1946. Ðiều này cho thấy sự nhạy bén với thời sự chính trị ở cây bút nhà văn là một lợi thế riêng mà nhà báo bình thường rất khó sánh kịp.
* Vũ Bằng là một cây bút sắc sảo, hóm hỉnh, có sức ảnh hưởng; thế nhưng trong công việc làm báo (viết báo) nhiều khi cũng mắc vào những ấu trĩ, câu khách (như bài viết về ma cà rồng). Ông nghĩ gì về điều đó?
- Sự ấu trĩ hay xu hướng câu khách là điều mà báo chí thông tục rất khó tránh. Xin nhớ làm nhà báo thông tin thì rất khó vượt lên trên thời đại.
Thời trước 1945 và cả thời nay nữa, báo chí (mà không chỉ các tờ bị gọi là “lá cải”) Ðông Tây đều đầy rẫy các chuyện dị đoan lạ tai hấp dẫn người đọc. Ngoài mọi việc khác, báo chí còn là nơi thỏa mãn thói “ngồi lê đôi mách”, “buôn dưa lê” của người đời.
Nhưng tôi xin lưu ý rằng ngay khi có vẻ như sa đà vào các “lề thói người đời” như vậy, một cây bút tầm cỡ vẫn biết cách ghi lại cho đời sau những nét hoặc cả tin thơ ngây hoặc tín cẩn mù quáng của con người thời mình, xứ mình.
Nụ cười kín đáo của Vũ Bằng ẩn sau các trang chuyện dị đoan do tay ông viết cho thấy điều đó.
* Trong thời gian sắp tới, ông có góp thêm điều gì mới nữa về di sản của nhà văn Vũ Bằng không?
- Tôi không tự xem mình là một chuyên gia về Vũ Bằng, nên xin nhường công việc thường xuyên về tác gia này cho các nhà “Bằng học”.
Tác phẩm của Vũ Bằng, kể cả trong hai bộ sách gọi là tuyển tập và toàn tập cộng với những công bố mới trong sưu tập này của tôi, vẫn còn thiếu hụt nhiều. Nhân vật Vũ Bằng và tác gia Vũ Bằng còn ẩn trong mình khá nhiều điều chưa được làm rõ.
Công việc tìm tòi đầy đủ về ông cần đến một nhóm chuyên gia chứ không phải chỉ vài ba tay tài tử.
Tôi cũng muốn nhân đây nhắc nhở các đồng nghiệp ở hai giới, nghiên cứu và xuất bản: đối với giới nghiên cứu văn học và sử học, việc tìm tài liệu liên quan đến mỗi nhân vật, mỗi tác gia gắng đừng quên nguồn tài liệu nào.
Còn giới xuất bản, khi thực hiện các bộ sách gọi là tuyển tập hoặc toàn tập, gắng đề ra yêu cầu bao quát toàn bộ đối với các nhóm biên soạn vốn đang muốn làm theo hướng vơ bèo vạt tép, ăn xổi ở thì, biến những bộ sách có nhan đề sang trọng thành những bộ sách tạp nham, không dùng được.
“Tôi không bao giờ lại chủ trương không nên học tiếng Pháp. Tiếng gì cũng nên học, học tiếng Pháp, học tiếng Anh, học tiếng Nhật, học tiếng Đức, học tiếng Tàu. Nhưng bao nhiêu tiếng đó chỉ có thể dùng làm sinh ngữ. Tiếng chính của nước ta dùng để học để thi cần là Việt ngữ, phải là Việt ngữ”. (Trích bài: “Từ việc dùng Việt ngữ trong kỳ thi sơ học bổ túc đến việc soạn sách giáo khoa cho các trường” của Vũ Bằng, in trên Trung Bắc Chủ Nhật, Hà Nội, số 246, 27-5-1945) |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận