19/03/2006 09:05 GMT+7

Kể chuyện đồng bằng: Xóm mồ côi

PHAN TRUNG NGHĨA
PHAN TRUNG NGHĨA

TTCN - Buổi trưa tháng hai nắng như dội lửa trên đầu. Từ thị xã Bạc Liêu tôi cưỡi xe lần dò về đến “xóm mồ côi” cũng chỉ khoảng hơn 30km thôi mà phải trải qua một đoạn đường rất gian nan.

Mb6yUzQz.jpgPhóng to
Nhà anh Tăng Út và giàn lưới the của anh ở xóm mồ côi
TTCN - Buổi trưa tháng hai nắng như dội lửa trên đầu. Từ thị xã Bạc Liêu tôi cưỡi xe lần dò về đến “xóm mồ côi” cũng chỉ khoảng hơn 30km thôi mà phải trải qua một đoạn đường rất gian nan.

Xóm này đúng là xóm “sơn cùng thủy tận”. Tôi gọi nó là “xóm mồ côi” bởi nó nằm mồ côi giữa một khu rừng chồi bạt ngàn, ngó ra một chút là biển Đông mênh mông, sau lưng là cánh đồng vuông tôm, ruộng muối bao la, muốn đi qua xóm khác phải vượt gần 5km; thứ nữa là vì khu dân cư này ở “lậu” trên đất rừng phòng hộ, mà theo qui định của công an thì không thể làm hộ khẩu, mà đã không có hộ khẩu thì chính quyền địa phương làm sao quản lý? Thế là họ cứ sống như dân mồ côi!

Một điều rất lạ là ở vùng ven biển tỉnh Bạc Liêu có rất nhiều xóm mồ côi như thế. Các ngành chức năng tổng kết có đến 614 hộ với 2.053 khẩu, tập trung chủ yếu là vùng ven biển huyện Hòa Bình. Dân đến đây từ tứ xứ, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, từ xã khác, huyện khác đến nhưng họ có chung một hoàn cảnh là... nghèo khổ.

Cái xóm mồ côi mà tôi vừa đặt chân đến gồm trên 40 căn hộ, chủ yếu là nhà lá cây rừng cất rất tạm bợ và xiêu vẹo. Xóm nằm trên một kênh thủy lợi thuộc lãnh địa của kiểm lâm Bạc Liêu. Xóm không có tên trên bản đồ hành chính cũng như ở ngoài đời, người ta lấy mương Bốn (tên của kênh thủy lợi) để gọi nó.

Xóm Mương Bốn là khu dân cư “năm không”: không hộ khẩu, không đường, không điện, không trạm xá, không trường học. Một con số không đáng phải kể thêm là không chợ búa. Tôi ghé nhà anh Tăng Út, sinh năm 1954, làm nghề “the” biển, mới thấy hết nỗi khổ của những người dân “sáu không” này.

Theo lời anh Út kể, đã lâm vào bước đường cùng họ mới về đây ở chứ cực khổ lắm. Đất ở đây là đất bãi biển nên rất thấp, vào những con nước rong, đặc biệt là con nước rong mông 3-10 âm lịch là đường sá, nhà cửa ngập hết. Lúc đó, xóm mồ côi như nổi trôi trên mặt nước. Có những nền nhà ngập 3-4 tấc, ba khía, cá đối... chạy xèn xẹt vào nhà. Tủ, giường, bàn ghế mục hết, đặc biệt là cột nhà chỉ 2-3 năm là mục, dân phải cất nhà lại. Còn mùa mưa thì muỗi như vãi trấu, trời chạng vạng là phải dọn cơm trong mùng ăn. Thế cho nên dịch bệnh, ghẻ lở hoành hành.

Đã là dân mồ côi thì không ai hướng dẫn vệ sinh, phòng bệnh. Thấy chúng tôi đến, nhiều người hiếu kỳ đến xem cũng phụ họa thêm rằng chưa bao giờ thấy ai đến đây vận động sinh đẻ có kế hoạch chứ đừng nói trị bệnh. Mỗi lần đổ bệnh là đến nhà bà Nhiều, đó là bà bán tạp hóa, thu mua hàng hải sản, cho vay tiền duy nhất ở xóm mồ côi.

Bà được xem là cái chợ, là ngân hàng của xóm. Bà Nhiều chỉ biết chữ nhấp nhem thôi mà làm cái việc cộng thuốc bán để điều trị bệnh cho cả xóm bởi không còn cách nào khác. Dân ở đây muốn đi lên trạm xá xã Vĩnh Thịnh phải đi hơn chục cây số. Đó là nói mùa hạn, chứ mùa mưa xóm mồ côi giống như một ốc đảo xa xôi bởi không thể về bằng xe hai bánh được nữa. Chính vì thế dân ở xóm mồ côi đẻ không thể tưởng tượng nổi.

Anh Tăng Út đang ngồi nói chuyện với tôi đây có đến chín đứa con. Còn chị vợ anh sinh đến 14 đứa. Thả tầm mắt quan sát chúng tôi thấy trẻ con mình mẩy sình đất, áo quần nhếch nhác chạy đầy cả xóm. Số các em được đi học đếm không đầy bàn tay. Chuyện này có lý do riêng của nó.

8bNbCaJf.jpgPhóng to
Cái dáng xiêu xiêu của ông già bẫy chim, một nhân chứng sống của vùng rừng, biển này cũng cô đơn như còn lại một mình trên Trái đất. Bất giác tôi ứa nước mắt, xúc động về sự mồ côi của dân xóm mồ côi, về tài nguyên của rừng, biển quê hương đã dần dần cạn kiệt.
Xóm mồ côi không có trường học, muốn đi học phải lội qua ấp Vĩnh Mới cách 5km để “học ké”. Cả xóm lại không ai có hộ khẩu, vì thế chẳng ai làm giấy kết hôn khi dựng vợ gả chồng. Đã không có giấy kết hôn thì không thể làm giấy khai sinh, mà bây giờ từ trường mẫu giáo cho đến trường đại học, trường nào cũng đòi giấy khai sinh cả.

Nhìn sắc diện của người ở xóm mồ côi có vẻ xác xơ, còi cọc quá, đặc biệt là có rất nhiều người đầu tóc rất dài, râu ria tua tủa... tôi buột miệng hỏi: “Ở đây không có dịch vụ làm đẹp à?”. Một chị khoảng hơn 30 tuổi đang nách con nhỏ mau mắn trả lời: “Làm gì có, đến hiệu cắt tóc nam còn không có nói chi đến uốn tóc, làm móng cho phụ nữ”. Thế là dân ở xóm mồ côi mất dần thói quen làm đẹp, trừ khi có đám cưới thì cực chẳng đã cô dâu mới lên ấp Vĩnh Mới cách 5km mà làm tóc.

Mọi dịch vụ, nhu cầu thiết yếu của đời sống ở xóm mồ côi chỉ được giải quyết ở cái tiệm hàng xén cỏn con của bà Nhiều. Nước sinh hoạt vào mùa khô cũng là một chuyện cực hình. Dân xóm mồ côi phải đi đổi nước từng thùng ở nhà bà Nhiều để nấu ăn, còn tắm thì lau qua quít cho xong chuyện. Tôi bất giác thảng thốt: sống như thế làm sao mà sống hả trời.

Trước mặt xóm mồ côi là vạt rừng đước, sau lưng là rừng mắm thâm thấp. Nghĩa là xóm mồ côi được đặt trong rừng phòng hộ - nơi mà lâm luật không cho phép tồn tại một khu dân cư. Có lẽ các nhà làm luật cũng thừa hiểu rằng nếu để cho dân sống lẫn lộn trong rừng phòng hộ thì trước sau gì họ cũng phá rừng.

Quả đúng như thế thật, lúc mới đến ấp Vĩnh Mới hỏi đường đi, chúng tôi đã chứng kiến nhiều người ở xóm mồ côi chở cây mắm to bằng bắp chân đem bán cho những người cất chòi canh tôm. Thấy tôi chăm chú hỏi nguồn gốc cây ở đâu, họ đánh trống lảng rồi chống xuồng đi. Đến các xóm mồ côi mới thấy người ta phá rừng một cách bạo liệt. Nhà của họ ngoại trừ lá dừa nước thì toàn bộ khung cột kèo đều được làm bằng cây rừng phòng hộ.

Nhà nào cũng chất một “cự” củi to với cây mắm, cây đước chỉ to bằng cẳng cái. Tất cả dụng cụ khai thác biển cũng được làm từ cây rừng. Sang hơn nữa, người ta bắc cầu cho xe hai bánh chạy qua được cũng từ cây rừng phòng hộ. Chưa hết, có nhà còn làm hàng rào bao quanh nhà bằng gỗ rừng phòng hộ. Một điều lạ lùng là sự xài sang cây rừng cấm lại diễn ra trước mũi của mấy ông kiểm lâm, vì trụ sở kiểm lâm chỉ cách đó một con kênh nhỏ (?).

Trong nhóm người hiếu kỳ đến xem các nhà báo ghé thăm, hỏi chuyện anh Út có một nhân vật rất đặc biệt, đó là ông Lê Văn Tám. Ông Tám năm nay vừa đúng 80 tuổi, đầu bạc trắng, người gầy như que củi khô của rừng phòng hộ. Tên tuổi ông hẳn hoi như thế mà cư dân ở đây và cả vùng phụ cận như Quành Tấn, Long Điền... đều gọi ông là ông Tám chim.

Người ta gọi ông như thế là vì ông làm nghề đánh bẫy chim biển bằng lưới từ năm 16 tuổi đến giờ. Đôi chân nhỏ xíu mà dẻo dai của ông đã sải hết cánh rừng này sang cánh rừng khác của vùng ven biển Bạc Liêu, Vĩnh Châu. Mấy người ở xóm mồ côi mách cho tôi biết rằng ông Tám chim nghèo rớt mồng tơi nhưng lại có đến bốn bà vợ, 17 đứa con. Nghe xong tôi muốn sụp xuống lạy ông mà bảo rằng: “Sư phụ ơi, con không thể hiểu nổi”.

Theo ông, đất địa này ngày xưa là một xứ sở đầy chim, đầy hạc. Sáng tinh sương ra mép biển là chim muông vỗ cánh ào ào như có bão đến. Mùa gió nam những đàn sấm, nhạn biển... từ tít tắp mù khơi bay về trú ngụ qua đêm ở cánh rừng mắm ven biển bạt ngàn. Ngày, chúng kéo ra bờ biển ăn cá ồn ào như vỡ chợ, bầu trời đầy chim cò chao lượn như một bức tranh thật sinh động.

Mùa gió chướng về đất trời khoáng đạt cũng là mùa của cót cồ, cót sẻ... kéo về. Những con cót cồ nặng cả ký lô. Bây giờ thì chim muông không còn bao nhiêu nữa. Ông Tám còn đi đánh lưới chim biển là vì cái máu mê đã ăn vào huyết quản của ông. Họa hoằn lắm mới có một con chim biển đâm vào lưới, vậy mà ông già cứ đi đánh lưới với những đêm thức trắng ngồi trên trang đước vừa đập muỗi như vãi trấu vừa căng mắt nhìn xem có con chim nào từ ngoài biển về ăn đêm không.

Ngày xưa rừng ở ven biển này là rừng nguyên sinh với những cây mắm to cả ôm người và chúng kéo dài đến vô tận, bạt ngàn.

Bãi biển Bạc Liêu ngày xưa cũng giàu tôm cá dữ lắm. Đến mùa trái mắm rụng, những bầy cá dứa nặng 5-7kg lội thành đàn vào ăn trái mắm và khi đã no thì chúng nổi lờ đờ trên mặt nước. Rồi không biết cơ man nào là cá, đặc biệt là cá con vì bãi biển là ổ đẻ của cá biển. Có thể nói biển là nguồn cung cấp cá con cho lục địa một cách hào phóng và tưởng chừng không bao giờ cạn kiệt.

Xứ Long Điền, Vĩnh Hậu, Nhà Mát... nổi tiếng cá kèo, tôm, cua... thì cũng do biển cung cấp nguồn tôm, cá con. Chính vì vậy, bãi biển Bạc Liêu là “đồng ăn” lý tưởng của các loài chim biển. Thế rồi giờ đây những di dân tự do đã “nhảy xổm” vào đánh bắt một cách bạo liệt ngay trên chiếc nôi sản sinh của tôm cá, ngay đầu nguồn cung cấp tôm cá cho lục địa.

Ông Tám dẫn tôi ra gần tấm lưới bẫy chim biển của ông khi thủy triều đã xuống, bãi biển trơ cát kéo dài thật xa. Ở đó đang có hàng ngàn con người với dụng cụ đánh bắt, đang chà đi sát lại, họ bắt tất cả những gì có thể ăn được, có thể bán được.

Một đứa trẻ đen nhẻm chạy xẹt qua trước mặt tôi để bắt một con sam biển chỉ bằng nắm tay của nó. Sam biển là loài giáp xác thịt rất ngon nhưng phải to cả ký thì mới có thịt, có trứng, đằng này... Chốc sau, một đứa trẻ khác lại bắt được một con đẻn biển chỉ bằng ngón tay út của tôi. Ông già Tám rên rỉ: “Người ta bắt tất cả sự sống ở đây, họ kết liễu sự sinh sản của biển”.

PHAN TRUNG NGHĨA
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0

Tuổi Trẻ Online Newsletters

Đăng ký ngay để nhận gói tin tức mới

Tuổi Trẻ Online sẽ gởi đến bạn những tin tức nổi bật nhất

Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên