![]() |
Dù tuổi đã cao nhưng hằng ngày bác sĩ Lê Trinh vẫn miệt mài làm việc, nghiên cứu khoa học - Ảnh: Mai Lâm |
Mỗi lần cần gặp bác sĩ Lê Trinh, bạn bè vẫn phải gọi điện đặt lịch hẹn vì bà luôn bận rộn dù năm nay đã 84 tuổi. Mỗi khi ra đường bà vẫn thích chấm một chút kem nền, kẻ chút viền mắt, thoa chút sáp môi. Bà quý thời gian và luôn cảm thấy có quá ít thời gian, thích suy nghĩ tích cực, thích nói chuyện với người trẻ và luôn muốn mình khoan hãy già. Cuộc đời bà là chuỗi ngày xốc tới, bước qua khó khăn và hiểu được nhờ điều gì mà mình đã bước qua được rất nhiều lằn ranh.
Băng qua cuộc chiến
“Hiểu hơn về người dân Việt Nam”
Trong chuyến sang thăm VN năm 1967, bà Isabella Blum, chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, tặng bác sĩ Lê Trinh một tấm ảnh với lời ghi: “Người bác sĩ nhỏ bé, mảnh khảnh này đã giúp tôi hiểu được cuộc chiến đấu ác liệt của Việt Nam, tinh thần chiến đấu anh dũng của người dân Việt Nam để bảo vệ độc lập tự do cho đất nước”. Viết về bác sĩ Lê Trinh, GS.TS Lê Quang Long nhận xét: “Bà đã sống và hoạt động thật sôi nổi, xứng đáng tầm cỡ của một trí thức Việt Nam chân chính trong giai đoạn đầy hiểm nguy nhưng rạng ngời vinh quang của thời đại Hồ Chí Minh”. |
Sau sáu năm học làm bác sĩ, cô về công tác tại Bệnh viện Ba Đình. Thời gian giặc ném bom và bắn phá Hà Nội, tiếng còi báo động máy bay liên tục từ mờ sáng đến đêm. Bác sĩ Trinh luôn đeo huy hiệu phòng không trên áo xuôi ngược khắp các nẻo đường. Những trận bom nổ vang trời rồi cũng thấy quen. Nỗi sợ nhường chỗ cho sự lo lắng cấp cứu cho dân cũng như chuyển bệnh kịp thời về tuyến trên.
Thời gian này cô phải gửi con đi sơ tán. Chồng vẫn đi kháng chiến biền biệt. Quần quật suốt tuần, đến mỗi chiều thứ bảy bác sĩ Trinh lại về chuẩn bị lương khô, làm ruốc thịt cho con để kịp 3g sáng đạp xe 40km đến nơi sơ tán. Cô cho con ăn, tắm cho con, ngồi với con một lát, đến 3g chiều lại đạp xe về. Mùa đông, cô tranh thủ ngủ lại với con vào tối chủ nhật. Ba mẹ con nằm nhờ trên một cái giường con. Hai thằng bé nằm áp sát vào mẹ.
Để rồi đúng 3g sáng, cô lại trở dậy đạp xe về Hà Nội trong cái lạnh cắt da. Mà phải đạp xe hết hơi mới kịp có mặt đúng 8g để điều khiển cuộc họp giao ban bệnh viện đầu tuần. Suốt những năm tháng chiến tranh, cô vẫn thường đi thăm con một mình. Nỗi nhớ và thương con làm cô quên cả đường xa, quên cái rét cóng của mùa đông và cái nắng gắt giữa mùa hè. Và cô cũng quên là cô chỉ có một mình.
Bận tối mắt nhưng Lê Trinh vẫn công tác và học tập tốt. Không chỉ thông thạo tiếng Pháp, cô còn mày mò tự học tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Đức, giao tiếp được bằng tiếng Nhật. Trong thời gian công tác học tập tại CHDC Đức năm 1969, có lần cô được một đơn vị quân đội mời nói chuyện về đề tài “Vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh”. Cô đã kể cho các bạn người Đức nghe câu chuyện về vợ một bí thư xã ở tỉnh Vĩnh Phúc mà cô có dịp làm quen khi đi sơ tán.
Tiếng của người nữ bác sĩ VN vang lên trong căn phòng tràn ngập sắc phục của binh lính Đức: “Người phụ nữ Việt Nam mà tôi kể là người suốt ngày không được mặc quần thả ống dài chạm đất. 5g sáng, tôi đã thấy chị xắn quần lên tận bẹn, sau lưng mang một cái sọt đi vào rừng hái chè. 7g sáng chị ra đồng cấy lúa, 3g chiều, chị bì bõm dưới ao vớt bèo hay bắt cá lo bữa cơm chiều. 8-9 giờ tối, chị sấy chè để sáng đem ra chợ bán. Trong thời gian chị làm việc thì thằng con trai 1 tuổi bò chơi bên cạnh, thằng bé cởi truồng vì không có quần. Có lẽ người phụ nữ VN này chỉ được mặc quần thả ống dài vào các ngày lễ lớn nhất của đất nước...”.
Câu chuyện kết thúc. Tiếng vang đáp lại từ hội trường: “Hoan hô Việt Nam, tôi xin hiến máu cho nhân dân Việt Nam...”.
Tròn vai đất nước giao
Bây giờ, tuần nào cũng vậy, mỗi tối thứ sáu bà đi ngủ trễ hơn một chút để chuẩn bị đồ đạc sớm mai đi khám bệnh. Sáng thứ bảy, mới hơn 6g, bà đã quần áo chỉnh tề lên xe đến Phòng khám Đa khoa từ thiện Long Bửu, Bình Dương. Bà mang theo một balô to, trong đó là mấy vỉ thuốc, dụng cụ y tế, bọc lá ngải cứu vừa hái buổi chiều, một bọc muối, chai dầu xanh, mấy chai cồn. Có khi bà còn khệ nệ mang lên cái đèn chiếu tia hồng ngoại mua giùm cho một bệnh nhân.
Mắt đã không còn tinh anh, tay đã không còn mạnh dạn, nhưng nhìn bà chích thuốc, ghi toa, ân cần hỏi thăm, người bệnh nào cũng thấy yên tâm. Bệnh nhân của bà là những anh xe ôm, những chị hàng rong, người già, người nghèo, công nhân không có hoặc có rất ít tiền. Nhiều khi người bệnh không có tiền mua thuốc, chụp phim, bà bỏ tiền túi ra cho.
Nhìn bà cụ 84 tuổi gần gũi và hay cười, thích mình trẻ, thích vận động, mỗi lần khám bệnh xong lại hô hào mọi người chạy thể dục quanh sân theo mình, ít ai nghĩ bà vốn là thành viên Ban bảo vệ sức khỏe trung ương, từng được phân công chăm sóc sức khỏe cho Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Tổng bí thư Lê Duẩn, quốc vương Sihanouk và hoàng hậu, nữ phi công vũ trụ Svetlana I. Savitskaya..., từng tiếp kiến nhiều nguyên thủ quốc gia, trí thức nước ngoài. 84 tuổi, bà vẫn thức dậy hằng ngày lúc 4g sáng để làm việc. Những tài liệu y khoa viết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt của bà được đánh giá cao và xuất bản ở nước ngoài.
Gần cuối chặng đường, sau mấy mươi năm tỉnh thức cùng đất nước, nhìn lại bà bình thản: “Hai chữ thành đạt mà bố chúc tôi ngày ấy cao cả quá. Cố gắng hết sức tôi cũng chỉ làm tròn vai mà đất nước giao cho - làm một thầy thuốc yêu nghề và trách nhiệm của một người mẹ trong gia đình bé nhỏ”. Riêng có một điều mà bà không nói. Bà đủ nghị lực đi qua hai cuộc chiến tranh nhưng không đủ sức giữ bố cho các con của mình. Họ chia tay vì ông đã chọn một cuộc sống không có bà ở đó.
Bà lặng lẽ viết trong hồi ký: “Hòa bình lập lại, chiến tranh kết thúc... Đám cưới của ba cậu con trai được tổ chức tại Hà Nội. Những ngày hạnh phúc của các con, bố cháu đều vắng mặt. Vô cùng, nỗi buồn của người mẹ!”.
Lớp học những ngày đầu lập quốc Ngay sau khi chính quyền về tay nhân dân vào tháng 8-1945, một buổi tối ông Phan Bá - cán bộ cách mạng - tìm gặp Lê Trinh, cô nữ sinh 18 tuổi, đặt vấn đề: “Bà con người dân tộc sợ hãi, bỏ chạy vào rừng, mình cần giúp họ, đưa họ trở lại sống với mình, để họ hiểu được đường lối, chính sách của cách mạng. Chúng tôi đã có những tài liệu của Việt Minh dịch ra tiếng Pháp. Chúng tôi sẽ mở lớp và nhờ chị dạy cho họ”. Dù đã tham gia đoàn thanh niên yêu nước tỉnh Gia Lai từ tháng 4-1945, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 23-8-1945 và đảm nhận chức vụ bí thư phụ nữ cứu quốc tỉnh, Lê Trinh vẫn ngỡ ngàng. Cô đem tài liệu về nhà đọc rồi nhủ thầm: “Mình sẽ hiểu rõ, hiểu tốt và sẽ làm được!”. Lớp học đầu tiên được mở ở Cheo Reo. Học viên là nhân viên các cơ quan chuyên môn kỹ thuật của chính quyền cũ, y tá, bác sĩ, thanh niên dân tộc Ê đê, Gia Rai, Ba Na... Họ đọc và hiểu tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Kinh. Trong nhiều ngày, tại lớp học dã chiến đó cô giáo trẻ, dễ thương, nói tiếng Pháp trau chuốt đã giúp các học viên, phần đông đều lớn tuổi hơn mình, hiểu được những khái niệm: “Cách mạng là gì, Việt Minh là ai, đoàn kết cứu nước là thế nào...”. Tiếng đồn về lớp học và cô giáo Việt Minh lan nhanh. Đồng bào dân tộc truyền tai nhau: “Việt Minh là con gái chúng mày ạ! Nó nói tiếng Pháp hay lắm. Nó nói về Bác Hồ. Bác Hồ là người tốt. Bác Hồ là Việt Minh. Họ sẽ đem lại lúa gạo, no ấm cho chúng mình. Mình sẽ được tự do...”. Bà con rủ nhau đến lớp ngày một đông. Thương cô giáo, học trò về nhà hái mít, hái chuối tặng cô. Một lần, Lê Trinh đang đứng trước cửa nhà thì một anh học trò chạy tới giúi vào tay cô trái dưa hấu căng tròn. Trên lớp vỏ dưa xanh mướt là dòng chữ được khắc cẩn thận: “Je t’aime” (Tôi yêu em - PV). Thời gian này Lê Trinh thường xuyên bị những cơn sốt rét rừng hành hạ. Cô nằm co ro, run cầm cập trong chăn, thấy trời đất như quay cuồng, thấy cả quả dưa xanh có dòng chữ “Tôi yêu em”, những gương mặt với nước da ngăm đen, những đôi mắt sáng hiền của học trò... Những tình cảm mộc mạc đó đã giúp cô vượt qua tất cả để tiếp tục bám lớp, hoàn thành nhiệm vụ được giao trong những ngày đầu lập quốc, dù người thì xanh như tàu lá, chỉ còn da bọc xương. |
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận